Thứ Sáu, 3 tháng 1, 2014

Vài chiến binh vĩ đại trong lịch sử loài người

(Kienthuc.net.vn) - Alcibiades, Arminius, Pyrrhus của Epirus... là những chiến binh xuất sắc trong lịch sử nhưng không phải ai cũng biết đến chiến tích vẻ vang của họ.
1. Alcibiades là một trong những chiến binh vĩ đại trong lịch sử nhân loại. Ông sở hữu diện mạo tuấn tú, là người có học thức và là chiến binh thiện nghệ. Truyền thuyết kể rằng, số lần quan hệ tình dục của ông nhiều hơn bất kỳ người đàn ông nào khác thời cổ đại, bởi lẽ, ông là cha của hàng trăm đứa trẻ.
Một trong những trận chiến vẻ vang của Alcibiades là Delium diễn ra vào năm 424 trước công nguyên. Khi đó, Alcibiades đã chiến đấu anh dũng và giành chiến thắng vang dội. Thậm chí, kẻ thù bại trận của ông đã đề xuất muốn gả con gái của mình cho vị chiến binh vĩ đại này.
2. Arminius còn được gọi là Hermann là một tù trưởng bộ lạc của Cherusci. Khi đế chế La Mã vẫn còn ở thời kỳ đỉnh cao, Arminius đã giành chiến thắng trước đội quân hùng mạnh của người La Mã trong trận chiến Teutoburg Forest. Khi đó, ông và binh sĩ của mình đã tiêu diệt được 3 quân đoàn La Mã và cả đội quân của quân đồng minh.
Dù cuối cùng Arminius đã bị một tướng lĩnh Đức ám sát, nhưng trong suốt một thời gian dài, ông là người ảnh hưởng lớn đến các bộ tộc người Đức cổ đại và Đế chế La Mã.
3. Pyrrhus của Epirus là vua nhà Aeakid thuộc tộc Molossia, Hy Lạp cổ đại. Một số nhà sử học cho rằng, lịch sử có thể sẽ có nhiều biến chuyển khác nếu Pyrrhus không bị một người phụ nữ giết chết ở Argos. Hannibal Barca đã miêu tả ông là vị tướng tài ba nhất, là vua chiến binh vĩ đại nhất từng xuất hiện trong lịch sử nhân loại.
Trong cuộc chiến tranh chống La Mã, ông áp dụng phương thức chiến tranh thời Hy Lạp hóa. Một trong số những trận đánh nổi tiếng của ông đã giành chiến thắng nhưng cũng gây ra những tổn thất nặng nề. Từ đó, thuật ngữ "chiến thắng kiểu Pyrros" ra đời dùng để chỉ những thắng lợi đem lại nhiều hậu quả hơn là thành quả. Ông cũng là người duy nhất thường xuyên đánh bại quân đội thành Rome.
4. Ioannis Varvakis sinh ra trong một gia đình nghèo khó ở một hòn đảo thuộc Hy Lạp. Trong suốt thời niên thiếu, ông sống trong cảnh đất nước bị đế chế Ottoman chiếm đóng. Do đó, ông quyết định trở thành một thủy thủ. Năm 17 tuổi, ông đã tấn công, khủng bố những tuyến đường mà tàu buôn của đế chế Ottoman thường đi qua chỉ với chiếc tàu nhỏ của mình có tên St Andrew.
Ông đã dành dụm tiền và sau đó mua những khẩu pháo trang bị cho tàu của mình. Trong trận chiến Chesma, Varvakis đã làm nên lịch sử. Sau khi trang bị những vật liệu dễ cháy, thuốc nổ và pháo cho tàu của mình, ông đã châm lửa và hướng chúng tấn công hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ, gây thiệt hại lớn cho hạm đội đó. Ông trở thành một huyền thoại của lòng dũng cảm và kỹ thuật mới, lạ ở khắp châu Âu.
5. Marcus Cassius Scaeva là một nhân vật quan trọng trong quân đội của Caesar và cũng là chiến binh xuất sắc. Trong trận chiến Dyrrhachium giữa Julius Caesar và quân đội do Gnaeus Pompey lãnh đạo, Scaeva đã chiến đấu ở tuyến đầu. Tuy nhiên, ông đã bị quân địch bắn trúng tên vào mắt.
Vết thương đó vô cùng nghiêm trọng và mọi người cho rằng ông sẽ bị mù vĩnh viễn. Tuy nhiên, Scaeva vẫn cảm thấy bình thường. Ông chỉ hét lên rồi rút mũi tên ra và tiếp tục chiến đấu. Thật kỳ lạ, ông vẫn hạ được nhiều tên địch trong tình huống bất lợi này.
6. Xiahou Dun (Hạ Hầu Đôn) là một trong những vị tướng lĩnh xuất sắc của Tào Tháo trong những năm cuối cùng của nhà Đông Hán. Ông đã trở thành một huyền thoại trong một trận chiến vào cuối những năm 190. Khi đó, ông bị trúng một mũi tên vào mắt trái.
Ông đã khiến tướng lĩnh của mình cũng như quân địch phải khiếp sợ khi nuốt con mắt bị trúng tên rồi tiếp tục chiến đấu. Sau trận chiến này, quân địch vẫn rùng mình sợ hãi khi nhớ lại cảnh tượng ấy và gọi Hạ Hầu Đôn là chiến binh một mắt. Huyền thoại về ông cũng được La Quán Trung miêu tả trong cuốn tiểu thuyết "Tam quốc diễn nghĩa".
7. Count Roland là người đứng đầu trong số 12 huân tước ở Charlemagne. Ông là một trong những vị tướng vĩ đại nhất mọi thời đại. Một trong những trận đánh nổi tiếng của ông là trận chiến Roncevaux Pass. Chủ nghĩa anh hùng và những kỹ năng tuyệt vời của người chiến binh đã được ông thể hiện xuất sắc trong thời gian chinh chiến tại dãy núi Pyrenees vào tháng 8/778.
Nó đã khiến ông trở thành một huyền thoại tuyệt vời. Roland đã chiến đấu chống lại hàng ngàn quân địch trong khi bên ông chỉ có 300 quân sĩ. Ông và tướng lĩnh của mình đã chiến đấu anh dũng đến phút cuối cùng. Quân đội của ông bị quân đội Basques đánh bại. Huyền thoại về người chiến binh xuất sắc này đã xuất hiện trong những tài liệu cổ xưa nhất của văn học Pháp hay bản anh hùng ca về Roland.
8. Simo Häyhä là một chiến binh nổi tiếng của Phần Lan. Ông đã qua đời vào ngày 1/4/2002. Ông được mọi người gọi với biệt danh là "cái chết trắng". Simo Häyhä là một tay bắn tỉa cừ khôi trong quân đội Phần Lan, đã tiêu diệt được 505 quân địch. Đây là xạ thủ bắn tỉa tiêu diệt được nhiều kẻ thù nhất trong lịch sử.
Trong cuộc chiến tranh mùa Đông (1939 - 1940) giữa Phần Lan và Liên Xô, trong nhiệt độ đóng băng - 40°C, Simo phải ngụy trang thành màu trắng và ẩn mình trong lớp tuyết.
9. Michael Wittmann là một sĩ quan thuộc lực lượng tăng thiết giáp Waffen-SS của quân đội Đức Quốc Xã trong Chiến tranh thế giới II. Ông nổi tiếng vì lập được nhiều chiến công xuất sắc và được vinh dự trao Huân chương Chữ thập Hiệp sĩ. Cụ thể, ông đã bắn hạ, phá hủy 138 xe tăng, 132 súng chống tăng và rất nhiều phương tiện, dụng cụ khác của quân đội Đồng Minh.
Vì vậy, ông trở thành một trong những chỉ huy xe tăng tài ba nhất của Đức trong chiến tranh. Chiến công nổi bật nhất của Wittmann là trong trận đánh tại Villers-Bocage diễn ra vào ngày 13/6/1944. Khi đó, Wittmann chỉ huy xe tăng duy nhất của mình chạy vào thị trấn này và phá hủy 14 xe tăng, 15 xe quân sự và 2 súng chống tăng chỉ trong vòng 15 phút.
10. Huyền thoại bắn tỉa nổi tiếng nhất trong Chiến tranh thế giới II và được cho là nổi tiếng nhất mọi thời đại Vasily Zaitsev là người Liên Xô. Một trong những trận chiến đẫm máu nhất trong Chiến tranh thế giới II giữa Liên Xô và phát xít Đức diễn ra tại chiến trường Stalingrad từ ngày 17/7/1942 đến ngày 2/2/1943.
Vasily và những binh sĩ bắn tỉa đã vực dậy tinh thần chiến đấu cho Hồng quân Liên Xô. Ông đã bắn hạ hàng trăm binh lính và sỹ quan Đức, khiến tất cả quân Đức ở đây đều phải hoảng loạn khi nghe đến tên ông. Trong trận chiến này, ông cũng bắn hạ được lính bắn tỉa hàng đầu của Đức quốc xã là Đại tá Konig.
 
Jeanne d'Arc (1412-1431) Nữ anh hùng Pháp I) Nguồn gốc câu chuyện Jeanne d'Arc
   1) Vụ kiện kết án Jeanne d'Arc:
   2) Vụ kiện vô tội hay phục quyền công dân
   3) Thư từ của Jeanne:
   4) Các chronique (biên niên):
II/ Nước Pháp trong cuộc Chiến tranh Trăm Năm (la Guerre de Cent Ans)
  - Phe Bourguignon
  - Phe Armagnac
III/ Jeanne d'arc
   1) Giai đoạn đánh giặc
   2) Giai đoạn bị bắt:
IV/ Người nữ chỉ huy quân đội:
V/ Sự trong trắng của Jeanne
VI/ Khả năng phán xét và tính khôi hài
VII/ Ý nghĩa của sứ mệnh
VII/ Đoạn kết
:


Jeanne d'Arc  đuổi quân địch ra khỏi nước Pháp  (họa sĩ  William Etty , Orléans, Musée des Beaux-Arts)
Jeanne d'Arc là một nhân vật được nổi tiếng khắp thế giới và đã được các nước Mỹ, Nhật khảo cứu. Người nữ anh hùng này không phải là một huyền thoại bởi vì nguồn gốc và sự việc xảy ra được biết rõ ràng. 
Những nguồn nói về Jeanne d'Arc: Đời công của Jeanne trải ra trong hai năm, từ năm 1429 đến 1431, ngày mà cô bị thiêu sống tại công trường Vieux Marché ở Rouen, lúc 19 tuổi.
Chúng ta biết về việc làm, vụ kiện và cái chết của cô từ 4 nguồn sau đây:
I) Nguồn gốc câu chuyện  Jeanne d'Arc 
1) Vụ kiện kết án Jeanne d'Arc:
Từ tháng 2 tới tháng 5 năm 1431, Jeanne bị xử tại Rouen, trong trại giam lớn ở Bouvreuil.  Lúc đầu vụ kiện được xử trước công chúng, sau đó xử kín,  các chưởng khế ghi lại phiên tòa: ghi lại những câu hỏi của quan tòa và những câu trả lời của Jeanne d'Arc. Hiện nay những sử gia có thể đọc 3 bản gốc viết tay trong đó có chữ ký của các chưởng khế (notaire). Một trong các bản viết tay này đang cất ở thư viện của Quốc hội Paris (Assemblée Nationale).
 2) Vụ kiện vô tội hay phục quyền công dân
(Le procès de nullité ou procès de réhabilitation  ) từ 1452 tới 1456, Guillaume d’Estouteville, khâm sai tòa thánh (le légat du pape) làm một cuộc điều tra để biết rõ sự thật về Jeanne. Có 115 nhân chứng: bạn thời  thơ ấu, những cô con biết rõ Jeanne ở Domrémy, những bạn cùng chiến đấu, những giáo sĩ biết cô khi cô thi hành sứ mệnh tại Poitiers năm 1429, dân chúng ở Orléans và các tỉnh đã tiếp đón cô, các chưởng khế khi thi hành vụ kiện với cô, các hội thẩm (assesseur) và các nhà tư sản Rouen đã thấy cô chết. Cuộc điều tra vô cùng kỹ lưỡng. Với những chứng nhân khác nhau, đem lại cho cuộc điều tra được rõ ràng về con người của Jeanne d'Arc. Từ vụ kiện đó mà các sử gia ngày nay có may mắn nắm giữ được 3 bản gốc viết tay có chữ ký của các chưởng khế.
 3) Thư từ của Jeanne:
Như tất cả những  chỉ huy trưởng quân đội, Jeanne có một quan tuyên cáo (héraut) chuyên mang tin về phe địch. Người ta khám phá hàng chục bức thư trong số đó có 4 bức có chữ ký của Jeanne.  Những bức thư khác được cất trong các hồ sơ lưu trữ cại các quận của một số tỉnh.
4) Các chronique (biên niên):
  được các nhà viết sử ghi những thời sự đã xảy ra thời bấy giờ. Hành động của Jeanne được chứng nhận bởi nhiều quyển biên niên, bởi thư từ trao nhau giữa những nhà buôn, từ các bài viết của các nhà văn cùng thời với cô. Thí dụ  như nhà văn nữ Christine de Pisan ca tụng những chiến thắng của Jeanne.
 Từ những chứng nhân khác nhau nhưng đã đưa đến những kết luận hầu như giống nhau một cách bất ngờ. Do đó cuộc đời của Jeanne là có thật chớ không  phải là một huyền thoại.
Thành phố Orléans
 II/ Nước Pháp trong cuộc Chiến tranh Trăm Năm (la Guerre de Cent Ans)
 Dưới thời Jeanne d'Arc, nước Pháp ở trong tình trạng thê thảm.
Từ năm 1338, hai nước Pháp và Anh chiến tranh với nhau trong  115 năm (1338-1453), mà người ta đặt tên là Cuộc chiến tranh trăm năm.
Thời kỳ Jeanne can thiệp là năm 1429. Chưa bao giờ nước Pháp lâm vào tình trạng   nguy kịch đến như vậy. Thời bấy giờ nước Pháp bị chia làm hai phe (camp):
- Phe Bourguignon kiểm soát Paris. Công tước Bourgogne là Philippe Le Bon liên kết với nước Anh. Nước Anh tràn qua Normandie lên đến miền Bắc nước Pháp và ngay cả đất công tước Guyenne. Từ khi ký hiêp ước Troyes năm 1420, triều đại Anh quốc được quyền cai trị nước Pháp bởi vì vua Charles VI bị điên, đã  truất quyền thừa kế của con trai là vua tương lai Charles VII, và trao quyền thừa kế cho con gái Catherine de France lấy vua Anh là Henry V
- Phe Armagnac  có công tước Charles d'Orléans cầm đầu, bị quân Anh bắt và bị họ cầm giữ trong 25 năm . Phe này ủng hộ thái tử Charles bị truất quyền. Lúc  bấy giờ quân Anh đã chiếm hầu hết nước Pháp . Tình trạng vô vọng 
III/ Jeanne d'arc
Cuộc đời và sứ mệnh của Jeanne d'Arc quá ngắn ngủi, cô mất lúc 19 tuổi, hoạt động chỉ vỏn vẹn có hai năm, từ tháng  hai năm 1429 đến 30 tháng 5 năm 1431. Hai năm trên có thể chia ra làm hai giai đoạn: Một năm đánh giặc và một năm bị bắt
1) Giai đoạn đánh giặc
1428: Tháng 6 năm này, quân Anh tấn công Vaucouleurs. Jeanne  và gia đình rời khỏi Domrémy và trú tại Neufchâteau. Công trường Vaucouleur kháng cự.
1429
- 12/02: Quân Pháp thua trận tại Orléans. thủ lĩnh quân sự Robert de Baudricourt cho phép Jeanne đến Chinon để gặp thái tử Charles
- 22/02 đến 4/03: Jeanne đi Chinon
- Cho tới 11/03: Jeanne gặp thái tử
- 11/03-24/03: Jeanne  đến Poitiers để chính thức hóa sứ mệnh của cô nhờ các giáo sĩ giúp.
- Cuối tháng Tư: Sau khi thành lập võ phòng, Jeanne đi Orléans.
- 8 tháng 5: Quân Anh thua trận, mở vòng vây
- 18 tháng  6: Quân Anh thua tại Patay.
-17 tháng 7: Lễ đăng quang của Charles VII tại Reims
- Từ tháng 7 tới tháng 9: Jeanne khởi sự hướng về Paris
- 10 tháng 7: Vua ra lệnh hủy bỏ tấn công Paris. Quân đội giải tán
- Tháng 11: Lấy được Saint-Pierre- Le - Moûtier  nhưng thua tại Charité sur Loire
1430
- Tháng 2 và 3: Jeanne trải qua mùa Đông ở Sully-sur-Loire.
- Tháng 3  đến tháng 5: Jeanne tiếp tục hướng về Paris
2) Giai đoạn bị bắt:
- 23 tháng 5: Jeanne bị Jean de Luxembourg, phe Bourguignon, bắt dưới thành lũy tại Compiègne.
- 11 tháng 7 tới đầu tháng 11: Jeanne bị giam trong  lâu đài Beaurevoir, nơi này cô đã định vượt ngục bằng cách nhảy từ một cái tháp. Trong lúc đó, Jean de Luxembourg bán tù nhân của ông ta cho quân Anh với giá 10 ngàn bảng Anh
- Từ tháng 11-tháng 12: Jeanne bị chuyển từ Beaurevoir qua lâu đài Bouvreuil ở Rouen.
1431:
- Tháng 1: Pierre Cauchon điều tra tại Domrémy Vaucouleurs.
- 13/02: Bắt đầu tại tòa án
- tháng 2 đến tháng 3: ra tòa
- Cuối tháng 3: Viết 70 bản cáo trạng truy tố Jeanne
- Tháng 4: Định đầu độc
- Đầu tháng 5: Hăm dọa tra tấn
- 24 /05:  Trong nghĩa địa Saint–Ouen, Pierre Cauchon bó buộc Jeanne phải từ bỏ nam phục. Jeanne phải mặc đồ nữ giới.
- 28/05: Jeanne mặc trở lại nam phục. Chỉ nhờ cớ duy nhất này mà Jeanne bị xem như tái phạm nên bị xử tử hình.
30 tháng 05: Jeanne bị thiêu sống trên công trường Vieux-Marché Rouen.
IV/ Người nữ chỉ huy quân đội:
Làm sao một người con gái bình thường, con  nông dân, chẳng  bao giờ rời khỏi làng, lại là một người cầm đầu quân đội và được bạn đồng chiến đấu khâm phục và kẻ thù sợ hãi?
Theo những người thân của Jeanne kể lại, cô là một người con gái bình thường, không có gì đặc biệt, trừ lòng sùng đạo cao độ đến nỗi cô bị các bạn trai cùng tuổi chế diễu. Bạn thân của Jeanne, Hauviette kể những  kỷ niệm về cô:
"Jeanne là người con gái tốt bụng, nhũn nhặn và dịu dàng, cô ấy rất ngoan đạo, đi nhà thờ và rất hỗ thẹn vì những  lời người ta chế nhạo về lòng sùng đạo của cô (...) Cô ấy cũng  chăm nom nhà cửa như mọi người con gái khác và thỉnh thoảng cũng dệt chỉ -tôi có thấy- cô ấy trông coi đàn cừu của cha cô"
Là một cô gái bên ngoài có vẻ  giản dị bình thường nhưng bên trong là một lòng kiên quyết vô bờ và một năng lực hiếm có. Từ tháng 1 năm 1429, cô  thử thuyết phục vị thủ lĩnh quân sự của công trường Vaucouleurs để cho cô đi gặp thái tử tại Chinon.  Anh bà con của Jeanne là Durand Laxart đưa cô đi và chứng kiến vị thủ lĩnh quân sự bảo ông hãy mang cô bé về trả lại cho cha cô, đồng thời ông tát cô bé hai cái.  Nhưng  Jeanne không sờn lòng, cô đã trở lại hai lần và cuối cùng đã thuyết phục được ông  thủ lĩnh này khi ông nghe cô báo tin cuộc bại trận của quân đội Pháp ngày hôm đó tại Harengs. Sự thất bại đó chỉ mới vừa xảy ra, tin tức chưa loan truyền mà Jeanne đã báo trước   làm vị thủ lĩnh quân sự sửng sốt và ông ta cho ngay một phái đoàn theo Jeanne hộ vệ cô.
Sau khi thuyết phục đuợc thái tử tại Chinon, Jeanne trở thành chỉ huy quân đội chính thức, được một võ phòng (maison militaire) với một kỵ sĩ, một quan giám quận (intendant) và một  quan tuyên cáo (héraut) chuyên việc đưa thông điệp của cô. Công tước Alençon trở thành bạn chiến đấu của cô, chóa mắt vì cách lên ngựa và sử dụng giáo (lance) của cô. Ông còn tặng cho cô một con ngựa nữa.
Sau khi gom tụ quân sĩ, cô đi chinh phạt Orléans, do thủ lĩnh quân sự Dunois bảo vệ. Sau 10 ngày, cô đã đánh bại những vị trí phía Đông của tỉnh và giải tỏa chiếc cầu trên sông Loire.  Chiến thắng này làm mở vòng vây, vì chỉ huy trưởng quân đội Anh bị tử thương.
Từ ngày 8 tháng 5 tới 18 tháng 6 Jeanne lấy lại các thành trì và các tỉnh ở bờ sông Loire.
Ngày 18 tháng 6 quân đội của Jeanne thắng trận lần đầu tiên kể từ đầu chiến tranh trăm năm. Những lần bại trận liên tiếp tại Poitiers, Crécy, Azincourt đã làm quân đội nước  Pháp nhục nhã ê chề. Bởi vậy chiến thắng Patay là sự phục thù mà cả nước mong chờ từ lâu, đã mang  lại cho quân đội và người dân Pháp lòng tin tưởng, đồng thời mở con đường đến Reims để Charles đăng quang tại đó.
Jeanne mang lại một bộ mặt mới cho chiến tranh, ở một thời kỳ mà sự bạo tàn dã man của các trận chiến đã làm mất đi nhũng đạo luật hòa bình của Chúa. Thật vậy,  sự trụy lạc, cướp bóc đầy dẫy. Những đồng đội của Jeanne nổi tiếng ăn cướp (Gilles de Rais, một trong những người đồng đội của Jeanne đã bị treo cổ vì tội hãm hiếp và ăn cướp) đối với cô, họ kính trọng đến tôn thờ, họ phải thay đổi phong tục và lời nói khi có mặt của cô.
 V/ Sự trong trắng của Jeanne
Để kiếm ra tội của Jeanne, Pierre Cauchon ra lệnh cho các cô mụ khám trinh tiết của cô, tại Poitiers, tháng 3 năm 1429 và Rouen , ngày 13/01/1431. Nhưng họ thất vọng. Jeanne là một trinh nữ, cho dù cô ở chung với người hộ vệ của cô trong lúc đóng quân ngoài trời. Gobert Thibault, một kỵ binh hoàng gia chứng nhận: "Trong quân đội, cô lúc nào cũng ở bên cạnh các chiến sĩ, tôi nghe những người thân thiết với Jeanne nói rằng họ không hề có ý định ham muốn Jeanne."
VI/  Khả năng phán xét và tính khôi hài 
Khả năng phán xét của Jeanne là một dấu hiệu liên kết chặt chẽ đến con người của cô. Jeanne không phải được người ta đánh bóng và những điều người ta biết về cô cũng không  phải xa rời thực tế mà ngược lại. Tại Poitiers, khi bị các nhà tu thẩm vấn, Seguin, một nhà tu giòng dominicain, đã xúc động bởi sự rõ ràng của những câu trả lời, sự vững chắc và thành thật của cô. Ông cũng ngạc nhiên vì tính khôi hài của Jeanne: "Tôi hỏi cô ấy nói bằng giọng nào. Cô ta trả lời "Hay hơn của ông". Còn tôi, tôi nói giọng miền Limoges.. Và tôi lại hỏi tiếp rằng cô ấy có tin Chúa không, thì cô ấy trả lời: "Có, nhiều hơn ông."
Sau đó, trong lúc xử án, các quan tòa cũng gặp phải khó khăn với Jeanne. Pierre Cauchon ra lệnh điều tra sơ bộ, nhưng cũng không thể kiếm cớ chính đáng để buộc tội được cô. Bởi vậy họ phải bắt đầu vụ kiện không có lý do chính đáng. Jeanne sẽ bị xử án trên chính những  lời khai của cô. Cô không có luật sư nên phải tự bảo chữa lấy mình, và cô trả lời rất hay, lý lẽ không  bao giờ mâu thuẫn, giữ cho lúc  nào cũng thuần nhất từ đầu đến cuối. Thí dụ trong tờ hỏi cung ngày 1 tháng 3 năm 1431:
- "Cô thấy thánh Michel hiện ra dưới hình thái nào? Ông ta có trần truồng không?
- "Ông nghĩ là Chúa không có gì để mặc đồ cho ông ấy sao?"
- "Ông ấy có tóc  không?"
-"Tại sao ông lại bị cắt tóc?"
-" Ông ấy có cái cân  không?"
-"Tôi không biết. Tôi quá vui mừng khi nhìn thấy ông"
Làm thế nào để kiếm cớ để kết án cô? Người ta thử viết thành 70 điều khoản dối trá để làm cô rối loạn, nhưng cô đối thoại rành rọt mà không bị vô tròng. Thí dụ như điều 7:
"Jeanne thỉnh thoảng mang một cây khoai mandragone trong ngực, để hy vọng sẽ được giàu có, và xác nhận rằng cây khoai này có hiệu quả". Chưởng khế ghi lại những câu trả lời của Jeanne và kết luận là "Điều khoản về cây khoai mandragone, cô ta chối hoàn toàn".
Các quan tòa mới kiếm cách chỉ cho cô phòng tra tấn để làm cô sợ, nhưng cũng  chịu thua: Jeanne tuyên bố: "Nếu như các ông buộc phải xé đứt chân tay tôi và đuổi linh hồn tôi ra khỏi xác, thì tôi cũng nói cho các ông nghe là sau này tôi sẽ luôn luôn nói là chính bằng vũ lực các ông bó buộc tôi phải trả lời theo ý các ông"
Bấy giờ chỉ còn có một luận chứng: y phục đàn ông.  Jeanne không được  nhà thờ chấp nhận là vì cô mặc y phục đàn ông, điều này cấm kỵ.
Jeanne bị ba người lính Anh canh gác, chân mang xiềng sắt và đến đem thì bị xích với một khúc gỗ to nặng. Bộ áo quần đàn ông là một sự phòng vệ.
Ngày 24/05/1431, Cauchon dàn cảnh. Jeanne ra trước tòa và buộc phải nghe theo luật nhà thờ là mặc y phục nữ, rồi bị bó buộc phải vô tờ khai là không đươc tái phạm. Nếu cô không ký, cô sẽ bị tội. Jeannehứa với Giáo hoàng là sẽ mặc đồ nữ. Trên tờ khai, cô chỉ điền dấu chữ thập vào trong  ô tròn cho dù Jeanne biết ký tên. Trong luật quân sự,  dấu hiệu đó có nghĩa là lệnh sẽ không được thi hành. Khi trở về lại nhà tù, cô mặc y phục đàn bà, nhưng đêm đến, những người canh gác đã lột hết quần áo mới của cô và để lại quần áo cũ của cô. Cauchon buộc tôi cô "tái phạm" (mặc trở lại y phục nam)  và kết án cô một cách gấp rút. 
VII/ Ý nghĩa của sứ mệnh
Tại Poitiers, Jeanne kể lại thiên triệu (vocation) của cô:
Khi Jeanne chăn cừu, có một tiếng nói vọng tới cô, bảo rằng Trời thương hại người dân nước Pháp rất nhiều và bảo cô phải đến với nước Pháp. Nghe tới đó, cô bắt đầu khóc, thì giọng nói đó bảo cô đến Vaucouleurs rồi gặp người chỉ huy quân đội ở đó,  và ông  này sẽ chỉ đường cho cô gặp vua mà không trở ngại gì" . Câu chuyện này Jeanne đã kể đi kể lại nhiều lần trước  các quan tòa mà không một chút mâu thuẫn cho dù họ luôn cho cô vô bẫy. Cô từ chối không chối bỏ tiếng nói bí ẩn đó khẳng định rằng ngay dù cô có chết đi thì quân Anh cũng sẽ bị đuổi ra khỏi nước Pháp.
- "Tôi biết là tụi người Anh này dẽ giết tôi chết bởi vì chúng nghĩ là sau khi tôi chết, chúng sẽ chiếm vương quốc Pháp. Nhưng  cho dù chúng có cả trăm ngàn Godons nhiều hơn hiện nay, chúng cũng sẽ bị đuổi ra khỏi vương quốc.
Thật vậy, sau khi Jeanne mất, người Anh đưa Henry VI lên ngôi, làm lễ đăng quang tại thánh đường Paris năm 1432, nhưng cũng không liên kết được với người Pháp và không đem lại vinh quang. Năm 1435 hai phe Armagnacs Bourguignons giải hòa với nhau. Năm 1436  người Anh bị đuổi khỏi Paris. Miền Normandie ngày trước bị cướp bóc , năm 1449 nổi dậy. Quân Anh bị bại trận tại Formigny năm 1450, và Castillon năm 1453. Họ phải nhường miền công hầu Guyenne mà họ đã chiếm từ thời  Aliénor d’Aquitaine (lấy vua Louis VII Pháp năm 1137, nhưng bị  ông này bỏ năm 1152, nên bà lấy vua tương lai Anh là Henry Plantagenet và đem của hồi môn là vùng Guyenne, Gascogne và Poitou)
Bằng chứng rõ ràng và xác thực về sứ mệnh của Jeanne là nước Pháp đã thực hiện hoàn toàn  những  lời triên tri của cô. 
VII/ Đoạn kết:Ngày 30 tháng 5 năm 1431 chấm dứt một cách ảm đạm mặc dù đáng lẽ dân Anh phải hết sức vui mừng vì kẻ thù số một của họ đã chết. Đao phủ thủ mà lúc trước tra tấn Jeanne trong tháp Rouen kể: "Khi bị ở trong lửa, cô ấy la lên 6 lần: "Jésus !" và nhất là ngay lúc hơi thở cuối cùng, cô ấy la thật to "Jésus !" la to đến nỗi mọi người tham dự buổi đó đều có thể nghe cô ấy . Hầu như tất cả mọi người đều khóc vì thương xót"
Người thợ nề sửa lâu đài nơi Jeanne bị bị tù, đã gặp cô nhiều lần lúc bị giam và bị xử cũng kể :
- "Tôi nghe maître Jean Tressart, thư ký của vua nước Anh, khi đi dự cuộc khổ hình của Jeanne về, đau khổ , rên rỉ, khóc lóc thảm thiết về việc ông ta đã thấy và nói "Tất cả chúng ta đều thiệt thòi, bởi vì chúng ta đã đốt chết một người tốt và thánh thiện" và ông ta nghĩ rằng linh hồn của cô được về với Chúa. Trong  khi cô ở trong giữa ngọn lửa, cô luôn gọi tên Chúa Jésus"
Ý nghĩa sâu xa của cuộc đời Jeanne được diễn tả trong những  phút cuối cùng của cô.
© http://vietsciences.net   và  http://vietsciences.free.fr Võ Thị Diệu Hằng

0 nhận xét:

Đăng nhận xét