Thứ Hai, 2 tháng 12, 2013

Bài viết hay(712)

Sáng nay bạn tui rủ ra Starbucks để chỉ giáo chút hiểu biết về bệnh sạn mật và khuyên tui cứ uống thuốc Kim Tiền Thảo đi chứ đừng vội nghe lời BS mà cắt bỏ túi mật. Nó nói: Khi đi vào tuổi già, cơ thể mình y hệt như chiếc xe hay cổ máy đã chạy quá nhiều rồi thì cần bảo trì thôi. Lúc này tụi mình sống bằng thuốc nhưng chớ dại dột nghe theo mấy thằng bác sĩ mà thuốc nào cũng đưa vào người vì suy cho cùng thuốc nào cũng là hoá chất với nhiều tác dụng phụ rất độc hại. Uống thuốc, tập thể dục, ăn kiêng.  Riêng mày thì tao khuyên: tất cả là do "khẩu nghiệp" từ cái miệng mà ra ! Bởi vậy, mày nên kiêng ăn, kiêng nói, đừng có bạ đâu ăn đó, đâu phải chuyện gì cũng nói? Qua chuyện này, mày đã thấy xung quanh mày có rất nhiều kẻ thù luôn rình rập để chơi mày cho chết; nhất là những đứa "tiểu nhân" đang làm việc chung với mày. Mày phải học ở thằng CS: đừng nói nữa, khi nào cần thì mới nói, nói làm sao cho thiên hạ sợ và nể phục thì hãy nói chứ nói mà thiên hạ ghét thì nói làm gì?  Đây là lúc mày hãy "tịnh khẩu", coi như mày đã chết rồi thì may ra mày mới qua hạn "tam tai" này, nếu không thì mày sẽ chết thiệt đó nhen...

 Martin Petty:  Những đảng viên đã “sáng mắt, sáng lòng” đang tiến hành một cuộc cách mạng thầm lặng ở Việt Nam
(Reuters) – Việt Nam ngày nay không phải là những gì mà một Lê Hiếu Đằng trai trẻ từng hy vọng khi ông gia nhập Đảng Cộng sản 40 năm trước với khát khao giải phóng và tái thiết một đất nước bị tàn phá bởi hàng chục năm chiến tranh dưới sự chiếm đóng của người Pháp và người Mỹ.

Chế độ xã hội chủ nghĩa của nhà cách mạng quá cố Hồ Chí Minh đã bị tha hoá, ông nói, bởi việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở đây lại chịu sự kiểm soát chặt chẽ của chính cái đảng đã sinh ra văn hoá tham nhũng và lợi ích nhóm.
“Tôi đã chiến đấu trong cuộc chiến vì một xã hội tốt đẹp hơn, một cuộc sống công bằng cho nhân dân. Nhưng rồi sau chiến tranh, tình hình đất nước lại xấu đi, người công nhân thì nghèo, người nông dân thì mất ruộng đất”, Lê Hiếu Đằng nói với Reuters.
“Đó là điều không thể chấp nhận được. Sự độc quyền và độc tài chính trị đang hoành hành trên đất nước này.”
Những ý kiến như thế có thể là bình thường ở nhiều nước. Song ở Việt Nam, nơi chính trị là phạm trù cấm kỵ, tự do ngôn luận bị bóp nghẹt, hình ảnh đoàn kết dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) được coi là thiêng liêng, các nhà phân tích cho rằng không thể đánh giá thấp ý nghĩa của hiện tượng các đảng viên lên tiếng công khai như vậy.



Các ĐBQH ấn nút thông qua Hiến pháp mới trong phiên họp ngày 28.11.2013
Thứ Sáu vừa qua, Quốc hội do ĐCSVN khuynh loát đã thông qua Hiến pháp 1992 sửa đổi; bất chấp một chiến dịch tham vấn công chúng, bản Hiến pháp mới vẫn củng cố quyền lực của đảng giữa lúc sự bất mãn đang diễn ra âm ỉ trong dân chúng bởi cách thức đảng xử lý tranh chấp đất đai, tham nhũng cũng như điều hành một nền kinh tế chìm ngập trong khối nợ xấu của các DNNN.
Lê Hiếu Đằng kịch liệt phản bác hiến pháp sửa đổi, và ông không đơn độc với quan điểm của mình. Đó chính là những quan điểm đã đưa hàng chục người vào tù. Nhà cầm quyền đã đẩy mạnh chiến dịch trấn áp vì tình trạng bất đồng chính kiến tăng lên và tỷ lệ sử dụng Internet đã chiếm tới 1/3 trong tổng dân số 90 triệu người.
Những luật lệ Internet vốn dĩ đã hà khắc lại được thắt chặt thêm hôm thứ Tư, khi chính phủ loan báo mức xử phạt lên tới 100 triệu VNĐ (4.740USD) dành cho bất kỳ ai chỉ trích họ trên các phương tiện truyền thông xã hội.
Tuy nhiên, điều khiến đảng phải giật mình là ở chỗ: những tiếng nói mạnh mẽ nhất đòi hỏi một hệ thống đa nguyên hơn lại không phải đang đến từ công chúng nói chung, mà lại là từ trong hàng ngũ của họ, một hành động nổi loạn công khai mà người ta chưa từng được chứng kiến kể từ khi ĐCSVN lãnh đạo nước Việt Nam thống nhất năm 1975, sau chiến thắng của những người cộng sản trước quân đội Hoa Kỳ.
“Việt Nam đã bước vào một giai đoạn mới. Sự tồn tại của cạnh tranh trong đảng là điều mà người ta đã biết, nhưng giờ thì điều đó đã trở nên rõ ràng hơn theo cách mà người ta chưa từng thấy trước đây”, Jonathan London, một chuyên gia về Việt Nam tại Đại học Thành phố (City University) ở Hồng Kông, bình luận.
“Sự nổi lên của nhóm này và lời khuyên từ họ sẽ ảnh hưởng đến diễn tiến của cuộc thảo luận trong đảng. Không còn nghi ngờ gì, đây là một giai đoạn đầy bất trắc và cạnh tranh.”
KHỦNG HOẢNG VÀ BẾ TẮC Năm nay, Lê Hiếu Đằng cùng 71 người khác, bao gồm trí thức, blogger và những đảng viên cả đương chức lẫn hưu trí, đã soạn thảo bản hiến pháp riêng nhằm hưởng ứng chiến dịch lấy ý kiến nhân dân sáo mòn mà lý do bên ngoài là xoa dịu nhân dân và tăng cường tính chính danh vốn đang nhạt nhoà của đảng.
Dự thảo hiến pháp của họ được đăng tải trên mạng và 15.000 người đã ký vào một bản kiến nghị kèm theo, kêu gọi bỏ Điều 4 Hiến pháp, điều khoản quy định độc quyền chính trị của ĐCSVN.
Tuy nhiên, các nhà lập pháp lại làm ngược lại và sửa đổi theo hướng tăng cường vai trò lãnh đạo của ĐCSVN cũng như nhiệm vụ bảo vệ đảng của quân đội. Trong bản tổng kết 26 triệu ý kiến của nhân dân về dự thảo hiến pháp, một uỷ ban của Quốc hội cho hay đa số nhân dân Việt Nam ủng hộ chế độ độc đảng.
“Về mặt lý thuyết, dân chủ không đồng nghĩa với đa đảng”, Uỷ ban Dự thảo Sửa đổi Hiến pháp 1992 nói trong một báo cáo hồi tháng Năm. “Không ai có thể khẳng định rằng nhiều đảng chính trị thì tốt hơn một đảng.”
Hôm thứ Sáu vừa qua, không một vị Đại biểu Quốc hội nào phản đối bản dự thảo mới, vốn mở rộng Điều 4 để quy định đảng là “đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc”.
Một bản dự thảo hiến pháp sửa đổi công bố mấy tuần trước đã khiến những người phản đối tức giận.
Các nhà vận động dân chủ khác đã gia nhập nhóm 72 người ban đầu và 165 người trong số họ, kể cả các cựu quan chức chính quyền, đã đăng một bản tuyên bố trên Internet hai tuần trước, với nội dung khuyến cáo các Đại biểu Quốc hội bác bỏ dự thảo hiến pháp sửa đổi.
Bản tuyên bố nêu rõ, nếu các ĐBQH thông qua hiến pháp sửa đổi thì họ đã nhúng tay vào một “tội ác chống lại Tổ quốc và nhân dân” và sẽ “chỉ càng đẩy đất nước lún sâu hơn và khủng hoảng và bế tắc”.
“VAI TRÒ CẦU NỐI” Nhiều trong số những người chỉ trích đảng công khai từng tham gia vào các cuộc chiến tranh giải phóng Việt Nam khỏi các cường quốc phương Tây trong những năm 1950 cho đến những năm 1970 và nay đã trở thành những nhà cách mới theo hình thức này hay hình thức khác, họ đối mặt với những chủ đề mà phần lớn người Việt Nam tỏ ra e sợ khi bàn tới.
Nguyễn Quang A từng một thời là thành viên của một viện tư vấn vốn đã tự giải thể sau khi chính phủ ban hành một nghị định hạn chế phạm vi hoạt động của nó 5 năm trước.
Thành viên của viện bao gồm những người từng là đảng viên, quan chức ngoại giao, doanh nhân và học giả. Họ giữ mối liên hệ với nhau qua các cuộc gặp hàng tháng để thảo luận về các vấn đề chính trị, kinh tế và xã hội; một số vấn đề được họ xử lý dưới hình thức những bài bình luận đăng trên mạng.
“Chúng tôi muốn tạo ra một môi trường để tạo điều kiện cho sự ra đời của các lực lượng chính trị khác và đề xuất một quá trình chuyển tiếp từ độc tài sang dân chủ”, ông nói với Reuters.
“Chúng tôi hy vọng một số những thành viên của chúng tôi có thể đóng vai trò cầu nối để giúp đảng lắng nghe chúng tôi. Chuyện này sẽ mất thời gian, nhưng chúng tôi phải gây sức ép để họ thay đổi và thuyết phục mọi người không sợ hãi.”
Lê Hiếu Đằng và các đồng minh trong ĐCSVN của mình đang tiến một bước xa hơn. Họ lập kế hoạch vẫn ở trong đảng để có thể thu hút được sự ủng hộ từ những đảng viên đã “sáng mắt sáng lòng” nhằm thành lập một đảng đối lập với mục đích giám sát các chính sách của ĐCSVN và kiểm soát nó.
Bất chấp ngôn từ mạnh mẽ, họ nhấn mạnh rằng kế hoạch thành lập Đảng Dân chủ Xã hội không phải là âm mưu lật đổ đảng cầm quyền mà là một nỗ lực nhằm tạo ra sự chung sống tự do hơn giữa những đảng phái đem lại lợi ích cho đất nước.
Hồ Ngọc Nhuận, Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Tp Hồ Chí Minh, một tổ chức bao trùm của ĐCSVN quản lý những tổ chức lớn hoạt động theo các nguyên lý của chủ nghĩa Marx-Lenin, nhận xét rằng chiến dịch lấy ý kiến nhân dân và bản hiến pháp sửa đổi là một “tấn bi hài kịch”, nó cho thấy đảng không còn liên hệ với nhân dân nữa.
Theo ông, đây là thời điểm phải sắp xếp lại hệ thống chính trị ở Việt Nam.
“Chúng tôi phải đối mặt với nhiều vấn đề ở Việt Nam, những cuộc khủng hoảng lớn, vậy thì làm sao chúng tôi có thể giải quyết chúng với một đảng toàn quyền? Chúng tôi phải thu hút sự chú ý của họ, vì thế chúng tôi đang kêu gọi các đồng chí trong đảng tham gia cùng chúng tôi để có thể phá vỡ vòng luẩn quẩn này”, Hồ Ngọc Nhuận nói; ông cũng thừa nhận mọi chuyện đang cho thấy là khó mà thuyết phục được họ.
“Thế hệ mới không thể giảng giải về chủ nghĩa xã hội cho chúng tôi được nữa. Tuy được gọi là Đảng Cộng sản nhưng bản thân họ cũng không còn tin vào hệ tư tưởng của mình nữa rồi.”
(Biên tập: Robert Birsel)
Nguồn: Reuters / Defend the Defenders
Hậu Hội đồng nhân quyền: Dân chủ Việt Nam sẽ ra sao?
Sau khi Nhà nước Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Hội đồng nhân quyền Liên Hiệp Quốc, nhà bình luận Phạm Chí Dũng dự báo về những đối sách có thể hình thành của Nhà nước đối với phong trào dân chủ.
Anh đề cập đến khả năng cải tạo điều kiện giam giữ, xu hướng hoạt động của các nhóm dân chủ ở Việt Nam, mối quan hệ giữa Nhà nước với các tôn giáo, “số phận” nghị định 72 và triển vọng thông thoáng hơn về Internet. Bên cạnh đó là sự hình thành xã hội dân sự và các tổ chức phi chính phủ trong nước, cùng hy vọng hồi hương của người Việt hải ngoại.
RFI: Thân chào nhà bình luận Phạm Chí Dũng. Thưa anh, trong một bài nhận định vào giữa năm nay, anh có dự báo là đến cuối năm 2013 sẽ xuất hiện một, hai tổ chức dân sự nhóm họp công khai. Và có khả năng trong cuối năm nay và cả năm 2014 sẽ ít hoặc không diễn ra các vụ bắt giam và kết án các nhân vật bất đồng chính trị. Dự báo này có liên quan gì đến một số tuyên bố mới đây của những tổ chức dân sự như Diễn đàn xã hội dân sự, Mạng lưới blogger Việt Nam, Hội phụ nữ nhân quyền Việt Nam và sự kiện Nhà nước Việt Nam lọt vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc?
Nhà bình luận Phạm Chí Dũng: Thật ra tôi đã chờ đợi thời điểm Nhà nước Việt Nam vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc từ tám tháng qua. Và tôi nghĩ rằng tháng 11/2013 là một mốc thời điểm có tính chuyển đổi khá quan trọng đối với hoạt động dân chủ ngoài đảng và cả xu thế phản biện, cải cách trong đảng ở Việt Nam.
Tôi cho rằng với giới blogger trong nước, họ không hẳn là bi quan về câu chuyện Nhà nước Việt Nam “bất ngờ” lọt vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc. Trong cách nhìn của một số blogger, thách thức luôn gắn liền với cơ hội, và có khi cái rủi lại chứa đựng cái may. Cái may đó lại gắn liền với điều được xem là “vận hội mới” khi Nhà nước Việt Nam lọt vào Hội đồng Nhân quyền, tức cũng kéo theo sự ra đời và chuyển động của những tổ chức dân sự ôn hòa như Diễn đàn xã hội dân sự, Mạng lưới blogger Việt Nam, Hội phụ nữ nhân quyền Việt Nam… và có thể thêm một số tổ chức dân sự khác trong vài quý tới.
Riêng với Mạng lưới blogger Việt Nam và tuyên bố tháng 11/2013, đây là lần thứ hai trong năm nay nhóm blogger này tìm cách thể hiện vai trò công khai của mình, sau tuyên bố phản đối điều luật 258 và được nhóm blogger trao cho một số cơ quan đại diện ngoại giao quốc tế tại Hà Nội và cả ở nước ngoài.
Là nhóm có tính hành động nổi trội nhất trong giới hoạt động dân chủ ở Việt Nam, có vẻ Mạng lưới blogger Việt Nam đang nhận thấy một cơ hội để đề cập sâu hơn chủ đề nhân quyền. Nhưng lần này, hành động dự kiến đáng chú ý nhất của họ là “xuống đường” để công khai phổ biến các văn bản về nhân quyền mà Việt Nam đã ký kết như Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền; Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị; Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa; Công ước chống tra tấn.
Một hành động dự kiến đáng quan tâm khác của Mạng lưới blogger Việt Nam là công khai tổ chức những buổi trao đổi hoặc cổ súy nhân quyền dưới nhiều hình thức như thảo luận nơi công cộng, dã ngoại, cà phê tuổi trẻ, đi bộ, lái xe đạp vì nhân quyền. Sắp tới, họ cũng sẽ công khai và chính thức ra mắt Mạng lưới blogger Việt Nam vào ngày 10 tháng 12, tức Ngày Quốc tế Nhân quyền do Liên Hiệp Quốc khởi xướng.
Tức là các blogger theo quan điểm “nhân quyền hành động” không muốn, và có lẽ cũng không còn mấy tâm trạng để còn ngồi trong nhà hoặc trong các quán cà phê bàn luận với nhau theo cung cách “chính trị salon” mà một số bậc dân chủ lão thành ưa thích hoặc bị ràng buộc.
Cũng có thể còn một lý do khác là nhóm blogger hành động đã nhận ra, sau chiến dịch tống giam ba blogger Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào và Đinh Nhật Uy vào giữa năm 2013, cho đến nay đã không có thêm một hành động bắt giam nào mới. Toàn bộ hành động của công an và chính quyền chỉ dường như mang mục đích “răn đe” và bằng biện pháp câu lưu hơn là cho “nhập kho”.
Thậm chí như nhiều người đã biết, chỉ nửa tháng sau cuộc gặp của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang với Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama, Nhà nước Việt Nam đã trả tự do tại tòa cho nữ sinh viên Nguyễn Phương Uyên. Hành động tương tự cũng được lặp lại với blogger Đinh Nhật Uy vào tháng 11/2013. Tức xu thế thả ra bắt đầu rõ hơn xu hướng bắt vào, và cũng bắt đầu có mối tương đồng với xu thế Nhà nước Việt Nam buộc phải điều chỉnh quan điểm và hành vi đối ngoại về chính trị.
RFI: Nhưng nhiều người hoạt động xã hội ở Việt Nam vẫn còn khá nặng tâm lý sợ hãi. Nếu tâm lý này được giải tỏa thì hiệu ứng kế tiếp sẽ thế nào?
Chúng ta sẽ thấy rằng một khi tâm lý sợ hãi được tháo dần thì giới hoạt động nhân quyền cũng bớt lo lắng, tính hành động sẽ được biểu hiện rõ hơn. Tôi cho rằng những người theo phương châm hoạt động xã hội dân sự ở Việt Nam đang bắt nhịp với thời cuộc và hoạt động một cách ôn hòa, tránh đối đầu, nhưng lại có hiệu quả và ngày càng có sức lan tỏa, thậm chí có tính thuyết phục với cả một bộ phận trí thức và đảng viên trong Đảng và chính quyền.
Con đường xã hội dân sự mà các nhóm trí thức lớn tuổi và nhóm blogger trẻ đang tiến hành sẽ có thể đạt kết quả ở chừng mực nào đấy. Chẳng hạn như nhóm họp công khai mà không bị đàn áp, thậm chí còn có thể tạo nên một diễn đàn và diễn thuyết ngoài đời thay cho hình thức diễn đàn trên mạng như trước đây. Những diễn đàn này sẽ dẫn đến việc đề cập ngày càng sâu hơn đến những vấn đề thiết thân với quyền lợi người dân như đất đai, quyền lợi người lao động và môi trường.
Và nếu nhóm blogger trẻ có thể đạt được một số kết quả nào đấy, điều đó sẽ tạo cảm hứng và kích thích những nhóm hoạt động dân chủ trung niên và lão thành. Tôi cũng nghĩ là nhóm “Kiến nghị 72” sẽ xúc tiến một hành động nào đó mang tính hành động, hơn là chỉ có những kiến nghị trên mạng như trước đây.
Ngoài ra cũng còn phải suy nghĩ về ý tưởng xây dựng “đảng Hồ Chí Minh”, hay một phong trào vận động nhằm trả tên nước về “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” như Hiến pháp năm 1946, đã và đang nằm trong nhận thức của một số đảng viên lão thành…
Từ đầu năm 2013 đến nay và đặc biệt sau sự kiện Nhà nước Việt Nam được chấp nhận tham gia vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, khá nhiều tư tưởng và ý tưởng như vậy ở Việt Nam. Đặc biệt tại Hà Nội đang tiếp tục hình thành và hướng đến hành động xã hội, như một xu thế không thể cưỡng lại, bất chấp sự cấm cản theo thói quen từ phía chính quyền.
Nếu mọi chuyện diễn ra bình thường, xu thế như vậy sẽ phát triển thành các tổ chức hội đoàn độc lập ngày càng nhiều, từ đó sinh sôi những phong trào dân sự.
RFI: Nhưng những phong trào xã hội như thế vẫn có thể bị nhà nước xem là thách thức chính trị và thành viên của họ vẫn có thể bị bắt bớ?
Tất nhiên không thể loại trừ hoàn toàn việc Nhà nước không bắt ai.
Hiện nay, yếu tố xã hội học đặc thù nhất mà có thể làm giảm hoặc tăng rủi ro cho những nhân vật hoạt động dân chủ, là tính số đông và tính quần chúng. Nhân vật càng hoạt động đơn lẻ thì càng dễ có khả năng bị “nhập kho”, và ngược lại, càng đông người và càng đoàn kết thì càng khó bị trấn áp. Vấn đề còn lại là nếu những hoạt động xã hội như nhóm Mạng lưới blogger Việt Nam chỉ khuôn hẹp bởi một số cá nhân mà không tạo được hiệu ứng lan tỏa rộng rãi hơn, không thu hút được nhiều hơn số người ủng hộ từ nhiều tầng lớp thì phong trào này khó lòng tồn tại được lâu dài, hoặc có tồn tại cũng chỉ trên danh nghĩa mà không mang tính thực chất.
Chỉ có điều, sẽ rất khó cho chính quyền và công an khi quyết định bắt giam một nhân vật nào đấy, dù chỉ là người ít tên tuổi và ít được giới nhân quyền và truyền thông quốc tế quan tâm. Bởi đơn giản là tính từ thời điểm Nhà nước Việt Nam được chấp nhận vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, bất cứ một động thái bắt bớ hoặc sách nhiễu nào đối với giới hoạt động dân chủ trong nước cũng đều có thể gây ra “thành tích” cho họ - về chuyện không tuân thủ các cam kết của họ trước Chủ tịch Đại hội đồng Hội đồng Liên Hiệp Quốc những quy định ngặt nghèo của Hội đồng Nhân quyền.
Cũng cần nói thêm rằng theo quy định của Hội đồng Nhân quyền, các thành viên trong hội đồng này không có quyền phủ quyết, và nhóm các quốc gia bị xem là vi phạm nhân quyền nhiều nhất như Trung Quốc, Việt Nam, Ảrập Xêút vẫn chỉ là nhóm thiểu số. Những quốc gia này luôn có thể bị loại ra khỏi Hội đồng Nhân quyền, nếu trong nhiệm kỳ thành viên bị xem là tiếp tục vi phạm và vi phạm một cách có hệ thống về quyền con người.
Vì thế tôi cho rằng chỉ trong những trường hợp đặc biệt và mang tính hãn hữu, Nhà nước Việt Nam mới tiến hành bắt giữ hoặc bắt giam những nhân vật bất đồng chính kiến bị xem là “quá khích” đến mức đe dọa trực tiếp đến quyền lực của Đảng và chính quyền.
Thay vào đó, nhà nước sẽ duy trì một số đối sách “kềm chế” hoặc “khống chế đối tượng”, đi từ “vận động thuyết phục” đến “cô lập” và “cách ly”, đặc biệt chú trọng biện pháp tác động kinh tế gia đình.
Và tất nhiên giới tuyên giáo đảng sẽ không bỏ qua vũ khí truyền thống của họ là “đấu tranh với các luận điệu sai trái và thù địch” thông qua phương tiện thông tin đại chúng là các báo đảng. Nhà nước Việt Nam luôn có nhiều biện pháp để đối phó với hoạt động dân chủ và nhân quyền, nhưng vũ khí ưu tiên nhất vẫn là “tuyên truyền định hướng” và “phản tuyên truyền”.
Còn trong ít nhất trong nửa đầu nhiệm kỳ Hội đồng Nhân quyền 2014 - 2016, hiện tượng bắt bớ có thể sẽ không phổ biến và không kéo dài. Và nhiều khả năng cũng không dẫn đến việc kết án nếu có nhân vật bất đồng chính kiến nào đó bị bắt giam.
Tình hình đó cũng có nghĩa là nhiều hội nhóm dân sự có thể hình thành và thậm chí hoạt động công khai mà không bị đàn áp hoặc bị bắt bớ.
RFI : Liệu Nhà nước Việt Nam sẽ tuân thủ những yêu cầu của Hội đồng Nhân quyền trong thời gian tới? Cơ sở nào để cho thấy thái độ khác thường ấy?
Dĩ nhiên sẽ buộc phải có sự cải thiện từ phía Nhà nước Việt Nam về mặt đối xử nhân quyền, nếu không phải là sự thay đổi não trạng thì ít nhất cũng là sự điều chỉnh hành vi trong ít nhất một số “sinh hoạt” nào đó.
Cơ sở cho sự thay đổi bắt buộc như thế vẫn là quy luật hạ tầng kinh tế quyết định thái độ chính trị.
Khách quan mà xét, nếu vào giai đoạn từ năm 2010 trở về trước, hiện tượng bắt bớ xảy ra khá nhiều là do khi đó chưa mấy có khái niệm về nợ xấu quốc gia, nhóm lợi ích hay nhóm thân hữu, cũng chưa có những diễn tiến trực tiếp giữa hậu quả kinh tế và bất ổn xã hội như hiện thời. Tức nền kinh tế còn được coi là “ổn định” và thế đứng chính trị cũng chưa mấy nghiêng ngả.
Còn từ năm 2011 đến nay, tất cả đều suy thoái, tất cả đều lộ hình, trằn trọc và dã man. Chưa bao giờ trong lòng dân chúng, tâm lý kích nổ lại tích tụ và dễ kích phát như bây giờ. Sắc thái ấy rất dễ nhận ra trong không khí và dư luận người dân và cả giới công chức ở ngay Thủ đô. Tất cả những hệ lụy xã hội lại đang tích tụ để tạo nên những sang chấn xã hội, và rất có thể dẫn đến khủng hoảng xã hội vào một thời điểm nào đó. Mà ai cũng biết khủng hoảng xã hội rất thường sẽ dẫn đến khủng hoảng chính trị.
Theo kinh nghiệm ở những nước Bắc Phi, khi cuộc biểu tình chỉ giới hạn số người tham gia từ vài trăm đến vài ngàn, sự thay đổi trong não trạng chính quyền chỉ diễn ra cục bộ và rất “khiêm tốn”. Nhưng khi số người biểu tình lên đến hàng trăm ngàn hoặc hàng triệu người, sự phẫn nộ của dân chúng có thể bắt cả một chính phủ phải từ chức hoặc bị lật đổ.
Tôi cho rằng những người lãnh đạo Việt Nam đã phần nào nhận ra cái thực tiễn đau đớn đang siết lấy đất nước và siết cả vào thân phận giới chính khách. Do đó họ buộc phải thay đổi. Thay đổi để ít nhất cứu vãn nền kinh tế đang trên bờ suy sụp. Thay đổi để giữ được quyền lực và cả tài sản cá nhân. Và thay đổi để ngăn chặn một làn sóng hồi tố từ phía dân chúng nếu thời cuộc biến động dữ dội.
Vậy thay đổi như thế nào? Có cảm giác như chưa bao giờ Nhà nước Việt Nam cần đến cộng đồng quốc tế và những “đối tác chiến lược toàn diện” như hiện thời. Có lẽ tâm thế ấy cũng phù hợp với một quy luật chính trị bất thành văn là khơi thông đối ngoại nhằm gỡ khó cho đối nội.
Trong tình thế hiện thời, ngân khố quốc gia đã có nhiều dấu hiệu cạn kiệt và tiền bạc phần lớn nằm trong túi các nhóm lợi ích, chỉ còn cách nhờ vào ngoại lực và ngoại viện thôi. Trung Quốc, Mỹ hay Nga đều được, miễn là “đối tác chiến lược toàn diện” và giúp cho Việt Nam tạm hồi sinh kinh tế và lấy lại phần nào cái gọi là “niềm tin dân chúng”.
Hậu quả nào sẽ xảy ra nếu quỹ lương hưu Việt Nam không phải “có khả năng vỡ vào năm 2030” mà có thể hết sạch chỉ sau ba, bốn năm tới? Chính thể cầm quyền sẽ đối phó như thế nào trước một làn sóng phản ứng dữ dội của giới hưu trí - như điều đã từng xảy ra ở nước Nga hậu Liên Xô vào những năm 90?
Đó là lý do vì sao tôi quan niệm rằng không khí đối nội và độ mở dân chủ trong nước dù chuyển biến khá chậm, nhưng vẫn phải tuân theo logic của diễn biến đối ngoại. Khác hẳn với giai đoạn 2009 - 2012 là thời gian mà làn sóng bắt giam và kết án các nhân vật bất đồng chính kiến dâng cao để vào cuối năm 2012, cuộc đối thoại nhân quyền Việt - Mỹ đã bị phía Hoa Kỳ đình hoãn, năm 2013 lại là thời điểm mà cuộc đối thoại này được tái lập. Cùng lúc, diễn ra hàng loạt cuộc gặp gỡ song phương Việt - Trung, Việt - Mỹ, Việt - Pháp và Việt - Nga.
Cuối cùng, điều được xem là “thắng lợi ngoại giao” hay “thắng lợi chính trị” của Nhà nước Việt Nam còn được kết tủa bởi một cái ghế trong Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc vào tháng 11/2013 với tỉ lệ phiếu thuận cao đến mức kinh ngạc: 96%!
RFI : Anh giải thích thế nào về tỷ lệ phiếu thuận cao đến mức bất thường đó? Phản ứng của báo chí trong nước ra sao?
Cần nói rõ hơn là không phải ngẫu nhiên mà có quá nhiều quốc gia bỏ phiếu thuận cho Nhà nước Việt Nam, trong khi trước đó hầu hết các nước Tây Âu thường quan ngại và chỉ trích thái độ thiếu tôn trọng nhân quyền của Việt Nam. Bởi theo một phân tích đáng chú ý trong giới quan sát thì trong thời gian gần đây Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc có khuynh hướng không tạo ra sự đối đầu giữa nhóm nước tôn trọng nhân quyền và nhóm nước thiếu quan tâm quyền con người.
Thay vào đó, Hội đồng này tìm cách dung hợp giữa các quan điểm và tạo điều kiện hơn nữa cho tiếng nói đối thoại với nhau. Đó là một quan điểm “dân vận” hiện đại. Bởi nếu không đối thoại thì có thể tình hình sẽ ngày càng tệ hơn, ai giữ quan điểm người đó và vấn đề nhân quyền ở các nước Trung Quốc, Việt Nam sẽ không cải thiện gì hết.
Nhưng quan niệm như vậy của Liên Hiệp Quốc đã hầu như không được đề cập trên mặt báo đảng ở Việt Nam - là những tờ báo vẫn tuyên truyền một chiều và không bỏ lỡ cơ hội vừa qua để xem đó là một thành tích tuyệt vời của Nhà nước Việt Nam.
Tuy nhiên, có một thực tế quá đỗi hiển nhiên mà không một tờ báo đảng nào nêu ra là tại sao trong suốt hơn hai chục năm, từ thời điểm ban hành Hiến pháp vào năm 1992 đến nay, ba vấn đề liên quan mật thiết đến quyền lợi của nhân dân và cần được luật hóa theo điều 69 hiến pháp là Luật biểu tình, Luật lập hội và Luật trưng cầu dân ý đã không hề được triển khai. Mà như vậy thì điều được báo đảng và giới tuyên giáo xem là “Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng và bảo đảm quyền con người” là thực chất hay giả dối?
Báo chí nói chung ở Việt Nam cũng đã rất nhiều lần, trong rất nhiều bài viết đề cập đến các quyền như thế của người dân. Đó cũng chính là sự khác biệt giữa báo chí phi lề đảng, tức nhiều tờ báo quốc doanh nhưng không mấy mặn mà với các định hướng tuyên truền của Đảng, với một ít báo lề đảng.
Trong nhiều nội dung của bản Hiến pháp sửa đổi từ đầu năm 2013 đến kỳ họp Quốc hội thứ 6 lần thứ XIII, vẫn chủ yếu là các báo đảng như Nhân Dân, Quân đội Nhân dân, Công an Nhân dân, Đại Đoàn Kết, Sài Gòn Giải Phóng và Đài truyền hình Việt Nam làm thế chủ công bảo vệ cho quan điểm bảo thủ Hiến pháp. Đến mức không muốn thay đổi bất kỳ một nội dung nào, kể cả thực trạng ngổn ngang và đau đớn về thu hồi đất đối với các dự án kinh tế - xã hội mà đã gây ra một tầng lớp dân oan khiếu kiện tại khắp các địa phương.
Nhưng những tờ báo đảng, cộng với một số tờ báo “ăn theo” khác, chỉ vào khoảng vài ba chục tờ, chỉ chiếm vài ba phần trăm trong tổng số khoảng 1.000 tờ báo in và điện tử được cấp phép hoạt động tại Việt Nam.
Ngay cả chuyện Nhà nước Việt Nam được chấp nhận vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc cũng chỉ được thông tin chủ yếu bởi báo đảng với dạng bài viết. Trong khi nhiều báo khác chỉ đăng hoặc phát tin ngắn gọn mà không bình luận, cho dù thành viên Hội đồng Nhân quyền là một nhiệm vụ quan trọng mà Ban Tuyên giáo Trung ương yêu cầu các báo “chủ động tuyên truyền”.
Khác nhiều với không khí tuyên truyền về khả năng Việt Nam gia nhập TPP, lần này rõ ràng đại đa số báo chí đều không hào hứng gì đối với việc Nhà nước Việt Nam đã “tôn trọng quyền con người” như thế nào, nếu không nói là ngược lại.
Điều đó cho thấy cái gì?
Nếu xem báo chí và công luận là mang tính đại diện cho dư luận người dân thì quan điểm bảo thủ hiện thời chỉ còn chiếm vài ba phần trăm, trong khi tuyệt đại đa số dư luận ở thế trung dung, không chấp nhận giả dối hoặc cấp tiến hơn hẳn.
Theo tôi biết, ở nhiều tờ báo nhà nước hiện nay, đa số phóng viên và cả cấp ban biên tập đều bức xúc và rất bất mãn về cái mà họ gọi là “vòng kim cô” siết chặt bởi Ban Tuyên giáo Trung ương và các ban tuyên giáo, sở thông tin truyền thông tỉnh thành. Ở một số báo, chỉ có một nhóm rất nhỏ, bao gồm tổng biên tập và phó tổng biên tập báo, là nhóm được coi là “kiên định” và là người của cấp trên ấn định để kiểm soát tư tưởng và nội dung của báo chí.
Và sự khác biệt giữa các quan điểm bảo thủ và cởi mở trong giới báo chí cũng có thể đang phổ biến ngay trong nội bộ đảng, tuy có khác hơn về mặt tỉ lệ. Vấn đề còn lại chỉ là một sự thay đổi lớn lao sẽ diễn ra vào lúc nào mà thôi, khi có những điều kiện tương tác chín muồi.
Nhưng ở Việt Nam, rất thường là khó có thể diễn ra những thay đổi tự thân nếu không có tác động ngoại biên. Tác động ngoại biên ấy, trong hoàn cảnh năm 2013 này và có thể trong vài năm tới sẽ phụ thuộc vào những ảnh hưởng chủ yếu từ Mỹ, Tây Âu và Trung Quốc.
RFI: Phải chăng tác động của phương Tây đã có ảnh hưởng điều chỉnh một số chính sách “đóng mạng” của Nhà nước Việt Nam như Nghị định 72 ?
Đó là một tác động có tính thuyết phục đối với tính “vô hiệu” của Nghị định 72 của Chính phủ Việt Nam về quản lý mạng xã hội. Trước khi Nghị định này được ban hành, đã có khá nhiều âu lo từ giới hoạt động truyền thông xã hội về những hàng rào vô hình được thiết lập để ngăn cản thông tin, và điều đó sẽ một lần nữa cho thấy “tự do báo chí” ở Việt Nam là như thế nào.
Nhưng từ đầu tháng 9/2013 đến nay, vẫn chưa có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy Nghị định 72 sẽ được triển khai “quyết liệt”. Vì sao lại như thế, trong khi hầu như toàn bộ công cụ thanh kiểm tra nằm trong tay các cơ quan nhà nước, và họ muốn hành xử lúc nào cũng được?
Nói thẳng ra là Nghị định 72, về bản chất, đã nhắm tới những mục tiêu hạn chế quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí, chỉ khuyến khích thông tin một chiều. Do vậy, nghị định này đã gặp phải sự phản ứng quyết liệt của cộng đồng hoạt động mạng và cả từ các tổ chức nhân quyền, báo chí quốc tế.
Trong bối cảnh phải thỏa hiệp với chính giới quốc tế để đổi lấy những điều kiện về kinh tế trong nước và cả quân sự tại biển Đông, giới lãnh đạo Việt Nam sẽ không thể để nghị định 72 cản bước tiến trình tham gia vào Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương hay Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc.
Và một khi Nghị định 72, vì nhiều lý do không được triển khai đúng với ý của những người soạn thảo ra nó, lại càng có cơ sở để cho rằng bầu không khí truyền thông xã hội ở Việt Nam trong vài năm tới sẽ rộng mở hơn, nhưng không phải do nhà nước “cấp phép”, mà sẽ phát triển một cách độc lập và tuân theo quy luật hội nhập quốc tế.
Thay vì dùng biện pháp “cưỡng chế” như Nghị định 72, nhiều khả năng Nhà nước Việt Nam sẽ tiến hành giải pháp “kiểm soát mềm”, nghĩa là sử dụng đội ngũ dư luận viên để kiểm soát và thực hiện công tác phản tuyên truyền, tức phản bác lại “các luận điệu sai trái và phản động”. Cần lưu ý là ở Trung Quốc đã hình thành đội ngũ dư luận viên và kiểm soát viên lên đến hai triệu người bằng tiền đóng thuế của dân chúng.
Trong xu thế chung khó cưỡng lại về hội nhập quốc tế, cũng dễ thấy là một điều kiện mà phía Mỹ và các nước Tây Âu đặt ra đối với Nhà nước Việt Nam về việc không được ngăn chặn việc phát sóng của các đài quốc tế, trong đó có các đài quốc tế Việt ngữ, sẽ dần được đáp ứng. Nếu như trước đây chỉ có đài BBC của Anh ít bị phá sóng, thì sau này cả đài RFI của Pháp, VOA và RFA của Hoa Kỳ cũng có thể được “ưu ái”. Khi đó, giới phân tích sẽ được biết con số 34 triệu người sử dụng Internet mà Việt Nam thường công bố thực chất là như thế nào, tức có bao nhiêu người trong đó có thể vượt tường lửa để tiếp cận với những thông tin thực chất về kinh tế, chính trị nội bộ, tự do tôn giáo, xã hội dân sự và cả tình hình giam giữ.
RFI : Về vấn đề này, việc Việt Nam tham gia Hội đồng Nhân quyền có làm thay đổi chút nào điều kiện giam giữ ?
Một người bạn có kể cho tôi nghe một câu chuyện lạ lùng. Vô tình anh được biết một tù nhân chính trị mà anh mới vào thăm đã được cán bộ quản giáo trang bị cả quạt điện trong phòng giam. Anh đã kinh ngạc về sự thay đổi đó.
Cho đến nay, vẫn không nhiều người biết rằng phần lớn các phòng giam trong nhà tù Việt Nam đều nóng bức, có nơi nóng kinh người, và cũng chẳng mấy người biết rằng việc có được một cái quạt điện trong phòng giam là một điều quá xa xỉ đối với người tù. Chính vì thế, hiện tượng quản giáo cho người tù quạt điện vào thời gian ngay trước khi Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc xét duyệt một cái ghế cho Nhà nước Việt Nam đã cho thấy ít nhất một tín hiệu vừa chống chế vừa thỏa hiệp.
Sự việc này cũng dễ làm người ta hình dung rằng Nhà nước Việt Nam đang liên tưởng đến điều gì, hoặc hậu quả nào từ một cuộc kiểm tra điều kiện giam giữ của các thanh sát viên do Hội đồng Nhân quyền cử đến Việt Nam vào năm 2014. Và cũng rất có thể, cái quạt điện sẽ bị lấy đi ngay sau khi thanh sát viên quốc tế mục kích buồng giam.
Trong khi đó, một thông báo của Hội nghị trung ương 3 của đảng Cộng sản Trung Quốc vừa cho biết quốc gia rất bảo thủ này đã quyết định xóa bỏ chế độ trại lao cải, tức những trại giam trong đó một số phạm nhân phải lao động khổ sai. Vấn đề là Trung Quốc lại cùng vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc với Việt Nam kỳ này, và khi Trung Quốc đã có một cải cách nhỏ như thế, Việt Nam sẽ thế nào?
Tôi cho rằng không còn cách nào khác, giới lãnh đạo và ngành công an Việt Nam sẽ phải có những bước cải thiện chế độ lao tù, không chỉ đối với chính trị phạm mà cả với tù thường phạm. Nếu cần thiết, họ có nhìn vào tấm gương Myanmar như một sự phản chiếu không đến nỗi tồi.
Mặt khác, những cái chết trong đồn công an sẽ nằm trong tâm điểm quốc tế. So với Trung Quốc, có vẻ tình trạng người dân “đột tử” trong đồn công an và các trại giam ở Việt Nam là nhiều hơn, có khi nhiều hơn hẳn. Tình hình đó dẫn đến việc sau nhiều lần trì hoãn, cuối cùng Nhà nước Việt Nam cũng phải ký kết Công ước chống tra tấn. Sự việc này chỉ xảy ra 5 ngày trước khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc.
Do đó chính vào lúc này, Nhà nước Việt Nam đang lo lắng về những câu chuyện làm càn của cán bộ công an tại các địa phương. Và có lẽ không phải ngẫu nhiên mà trùng thời điểm Hội đồng Nhân quyền nhóm họp vào tháng 11/2013, ở Việt Nam đã phát lộ vụ việc tù nhân Nguyễn Thanh Chấn bị án oan đến 10 năm. Đó là chưa kể đến tình trạng tạm giam không xét xử mà có trường hợp kéo dài đến 7 năm…
Bởi thế tôi cho rằng, ngành công an và chính quyền các địa phương sẽ có một số động tác điều chỉnh thái độ và cách hành xử của công an viên đối với dân trong thời gian tới. Nhất là nếu xã hội dân sự hình thành và thông tin dân sự được truyền ra quốc tế sẽ nói thay cho cả báo chí trong nước về những vụ bạo hành của công an đối với dân chúng.
RFI: Xã hội dân sự vẫn bi quan hay có thể lạc quan, nếu tính từ mốc thời điểm Việt Nam tham gia vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc?
Tôi cho là khác hẳn với việc tham gia ký kết Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị từ năm 1982 nhưng chẳng mấy quan tâm đến những nội dung của nó, giờ đây Nhà nước Việt Nam ở vào thế phải định kỳ “tự kiểm điểm” trước các cơ quan nhân quyền quốc tế. Vì nếu không, sẽ chẳng có sự cải thiện kinh tế và ngoại giao nào diễn ra.
Xã hội dân sự sẽ đóng góp một phần không nhỏ vào công cuộc cải thiện bất đắc dĩ ấy. Mà một trong những lời cam kết của Nhà nước Việt Nam trước Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc vào tháng 8/2013 là tạo điều kiện sinh hoạt dân chủ hơn nữa cho người dân, được hiểu như một sự định hình ban đầu về xã hội dân sự.
Có một chi tiết đáng chú ý là sau chuyến làm việc với giới quan chức chính phủ Việt Nam vào đầu tháng 11/2013, Quyền phó trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ Scott Busby đã nói thẳng với báo giới quốc tế về một trong những mục đích ưu tiên của Chính phủ Hoa Kỳ là xã hội dân sự ở Việt Nam, và Hoa Kỳ sẽ hỗ trợ cho các nhóm dân sự ở đất nước này.
Một chi tiết đáng chú ý khác là ngược lại với những tuyên ngôn theo cách “xã hội dân sự là một thủ đoạn của diễn biến hòa bình” vào cuối năm 2012, báo đảng đã không hề công kích Scott Busby về chủ đề xã hội dân sự mà ông nêu ra. Trong khi đó, lại có thông tin từ Trung Quốc về việc người được tạp chí Forbes đánh giá là có quyền lực thứ ba trên thế giới là Tập Cận Bình đang có chủ trương ngầm cho hình thành xã hội dân sự tại Trung Hoa.
Mãi gần đây, tôi mới nhận ra một tín hiệu về khả năng là trong thời gian tới, Nhà nước Việt Nam sẽ “chủ động nghiên cứu về xã hội dân sự và vận dụng xã hội dân sự vào những điều kiện ở Việt Nam”. Nhưng tất nhiên, đó không phải và không thể là một mô hình xã hội dân sự giám sát độc lập của người dân, mà có thể là “xây dựng xã hội dân sự định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Nếu khả năng này diễn ra, và tôi cho là sẽ diễn ra, tất nhiên Nhà nước Việt Nam sẽ không còn chủ trương quá siết chặt hoạt động của các nhóm dân sự, kể cả những phong trào dân sự đang manh nha tại Hà Nội, Sài Gòn và một số tỉnh thành. Thay vào đó, chính quyền sẽ có thể làm lơ đối với loại tổ chức dân sự mang tôn chỉ thuần túy xã hội, văn hóa, mà chỉ tập trung khống chế những tổ chức dân sự bị nhà nước xem là “mang màu sắc chính trị” hoặc tổ chức dân sự trong các tôn giáo.
Nếu hoạt động dân sự khởi sắc hơn thì sẽ kéo theo sự hợp thức hóa và phát triển của loại hình tổ chức phi chính phủ (NGO) trong nước. Thật ra, vấn đề NGO trong nước đã được một số tổ chức hội đoàn nhà nước như Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam và nhiều trí thức kiến nghị cho hình thành cách đây hàng chục năm. Song cũng như sự chậm trễ cố ý đối với việc ban hành các Luật biểu tình, Luật lập hội và Luật trưng cầu dân ý, cho đến nay Nhà nước Việt Nam mới chỉ chấp nhận một số tổ chức NGO nước ngoài với mục đích tiếp nhận viện trợ không hoàn lại, còn NGO trong nước vẫn chưa nhận được một khung pháp lý nào.
Liên quan đến NGO trong nước, nghiệp đoàn lao động lại là một trong những điều kiện then chốt mà Việt Nam phải đáp ứng nếu muốn tham gia vào TPP. Như tôi đã đề cập, sẽ rất khó để tự thân các vấn đề trong nước thay đổi, nếu không có tác động đủ ý nghĩa và đủ mạnh từ cộng đồng quốc tế. Vào lần này, đang có hy vọng rằng cùng với những tác động từ TPP và Hội đồng Nhân quyền, Nhà nước Việt Nam sẽ phải chính thức ban hành một khung pháp lý cho hoạt động NGO trong nước. Và khi đó, xã hội dân sự sẽ có thêm một thành phần chính thống mà không phải hoạt động thầm lặng như trước đây.
Nếu trong nhiệm kỳ Nhà nước Việt Nam tham gia vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc từ năm 2014 đến năm 2016 mà Hoa Kỳ và các nước Tây Âu và Bắc Âu nhiệt tình hỗ trợ cho hoạt động dân sự ; chắc chắn vấn đề sự hình thành, vận động và đồng thuận của xã hội dân sự ở Việt Nam sẽ có tính khả thi. Cũng là để chuẩn bị cho một giai đoạn mới và dân chủ hơn nhiều của đất nước này.
RFI: Các tổ chức tôn giáo cũng sẽ được chấp nhận nhiều hơn trong thời gian tới?
Không, không phải tất cả các tổ chức tôn giáo đều được chấp nhận. Thái độ buộc phải chấp nhận của nhà nước đối với tổ chức tôn giáo chỉ dựa trên những điều kiện là tổ chức tôn giáo đó phải có một lượng tín đồ đủ đông và sức ảnh hưởng đủ lớn, đồng thời phải có được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế.
Có một sự khác biệt khá lớn trong cách hành xử của nhà nước đối với các tôn giáo. Trong khi giới Phật giáo và cả người Công giáo được hành lễ khá thoáng và các tổ chức giáo lý và dân sự Công giáo cũng được hình thành và hoạt động dễ dàng hơn, thì với Tin Lành và Phật giáo Hòa Hảo thuần túy lại không phải như vậy.
Tương tự, theo một thỏa thuận giữa Vatican và nhà nước Việt Nam, Giáo hội Công giáo Việt Nam có thể “xin lại” một số cơ sở nhà thờ, dòng tu đã cho nhà nước mượn từ thời 1975, nhưng các tôn giáo khác lại khó đạt được mong ước ấy. Đó là do trong mắt nhà nước, giới Công giáo luôn đủ mạnh và có ảnh hưởng đến quốc tế. Trong khi đó, giới tu sĩ Tin Lành, Phật giáo Hòa Hảo thuần túy và Cao Đài lại có vẻ chưa được các nhà nước và các tổ chức nhân quyền, tôn giáo quốc tế quan tâm đầy đủ.
Hội đoàn từ thiện tôn giáo đương nhiên là một thành phần không thể thiếu trong xã hội dân sự. Nếu xã hội dân sự được hình thành và các hội đoàn tôn giáo có thể kết hợp với nhau và với các nhóm trí thức trong xã hội dân sự, đó có thể sẽ là một “liên minh” làm tăng tính hiệu quả của các phong trào dân sự, trong đó giúp ích không nhỏ cho điều kiện hoạt động của các tổ chức tôn giáo. Ở Việt Nam hiện nay đang có những tổ chức dân sự như thế, như Ủy ban công lý và hòa bình Công giáo, giáo phận Vinh ở Nghệ An, nhà thờ Thái Hà ở Hà Nội và nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế ở Sài Gòn.
Nhưng dĩ nhiên Nhà nước Việt Nam rất biết những yếu điểm của từng tổ chức tôn giáo và giữa các tổ chức tôn giáo với nhau. Họ cũng biết nếu không thể hiệp thông với nhau một cách chặt chẽ, các tôn giáo và các tổ chức dân sự thuộc tôn giáo sẽ không thể có được những quyền lợi theo nghĩa đầy đủ của khái niệm “tự do tôn giáo”. Và họ cũng biết làm thế nào để các tôn giáo không quá xích lại với nhau…
RFI : Từ năm 1975 cho tới nay là đã 38 năm qua rồi, nhiều người đã đặt ra vấn đề hòa hợp hòa giải dân tộc, nhưng hình như chưa từng được xích lại gần nhau theo đúng nghĩa. Liệu cơ chế Hội đồng Nhân quyền có mở ra hướng nào mới cho việc hồi hương của những người Việt bất đồng chính kiến?
Khả năng xã hội dân sự có thể được chấp nhận ít nhất về danh nghĩa trong thời gian tới cũng gợi mở cho một khả năng khác, là cơ chế hòa hợp và hòa giải dân tộc được tôn trọng một cách đầy đủ hơn. Nghĩa là bằng hành động chứ không phải chỉ với lời nói trong Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị cách đây hàng chục năm, về công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài.
Điều đó có nghĩa là dù không thực sự hăng hái với công việc này như thường quá háo hức thu hút kiều hối, Nhà nước Việt Nam sẽ cần làm một cử chỉ nào đó rộng rãi hơn đối với một số nhân vật bất đồng chính kiến ở hải ngoại. Theo tôi, nếu sớm thì vào năm 2014, trễ hơn vào năm 2015, nhiều nhân vật bất đồng chính kiến, kể cả những người bị nhà nước Việt Nam coi là “chống cộng”, sẽ có cơ hội trở về quê hương đoàn tụ với người thân.
Cần nhắc lại là vào giữa năm 2011, Tổng thống Myanmar Thein Sein đã cho phép các nhân vật bất đồng mạnh mẽ nhất được trở về đất nước, để từ đó đến nay hầu như không xuất hiện cuộc biểu tình chống đối nào đối với ông hay các quan chức chính phủ Myanmar khi họ công du ngoài nước.
Nhìn chung, tôi cho là tình hình dân chủ Việt Nam sẽ được “nới” hơn trong từ một năm rưỡi đến hai năm tới, tương đương với một nửa đến hai phần ba nhiệm kỳ của Nhà nước Việt Nam trong Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc. Không khí phản biện và sự hình thành ban đầu của xã hội dân sự trong thời gian này sẽ khá êm ả.
Tuy nhiên, câu hỏi còn lại là không khí êm ả như thế sẽ kéo dài bao lâu sau đó? Tất nhiên đây là một ẩn số không dễ trả lời vì còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố tương tác.
Một trong những yếu tố đó là những bài học trong dĩ vãng. Tức vào năm 2006, sau khi được người Mỹ đưa ra khỏi danh sách các quốc gia cần quan tâm đặc biệt về nhân quyền và tôn giáo (CPC) và trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), không khí bắt bớ ở Việt Nam cũng tạm lắng trong khoảng hai năm.
Nhưng đến năm 2009, được xem là thời điểm của đỉnh tạm phục hồi của nền kinh tế, một số nhân vật bất đồng chính kiến bắt đầu bị “nhập kho”. Các nhóm lợi ích kinh tế và thân hữu chính trị cũng tung hoành chưa từng thấy, xô quốc gia vào một cuộc khủng hoảng toàn diện và sâu sắc chưa từng thấy…
Vì thế, ẩn số quan trọng nhất mà chúng ta cần giải đáp là liệu nền kinh tế Việt Nam có thể phục hồi trong vài ba năm tới hay không. Đáp án này sẽ quyết định tất cả cho tương lai chính trị ở Việt Nam.
Xét cho cùng, một cái ghế trong Hội đồng Nhân quyền chỉ mang tính hữu danh vô thực. Cánh cửa quan yếu hơn nhiều đối với Nhà nước Việt Nam là Hiệp định TPP và viện trợ quốc tế, chẳng hạn nguồn vốn ODA từ Nhật Bản. Khi đó mới có thể nói đến chuyện nền kinh tế Việt Nam còn cơ may nào để tồn tại hay sẽ là một sự sụp đổ không tránh khỏi, dẫn đến khủng hoảng xã hội và tất yếu là khủng hoảng chính trị.
Tất cả những bất ổn tiềm tàng như thế phải được xử lý trong vỏn vẹn ba, bốn năm tới, nghĩa là đến giai đoạn 2016-2017. Nếu không, khủng hoảng chính trị sẽ là chắc chắn!
RFI: Xin chân thành cảm ơn nhà bình luận Phạm Chí Dũng ở Thành phố Hồ Chí Minh đã vui lòng trao đổi với RFI Việt ngữ những dự báo về không khí chính trị tại Việt Nam trong thời gian tới.
 Nước ta không cần chữ "Đấu", mà cần chữ "Hòa": HÒA BÌNH, HÒA HỢP, HÒA THUẬN, HÒA GIẢI
Nước Việt Nam ta hiện là một quốc gia kém phát triển về mọi mặt, vừa lạc hậu, vừa lạc điệu với một thế giới nhìn chung đã và đang phát triển rất nhanh, đặc biệt từ nửa sau thế kỷ XX.
Tạm bỏ qua một bên mọi sự "giải thích", nào đổ tội cho phong kiến đế quốc, thực dân, bành trướng, thiên tai, địch họa, chiến tranh, cách mạng; nào viện dẫn sai lầm chủ quan của những người cầm nắm vận mệnh quốc gia mấy chục năm qua, v.v... tình trạng ấy là không bình thường, gây nên một bức xúc tâm lý, một nỗi đau thân thể, một nhức nhối thân xác và tâm linh, buộc KẺ SĨ và NGƯỜI DÂN, vừa gian khổ kiếm sống, vừa suy nghĩ đêm ngày, tìm cách khắc phục và vượt qua tình trạng tủi nhục này...
Có ĐỘC LẬP rồi chăng, nhưng hoạ LỆ THUỘC vẫn luôn luôn mai phục, cả về mô hình chính trị và sự phát triển kinh tế...
Có THỐNG NHẤT rồi chăng, nhưng mầm CHIA RẼ mọc rễ sâu xa, nào Bắc / Nam, nào Cộng sản / không Cộng sản...
Điều chắc chắn, là NHÂN DÂN chưa có HẠNH PHÚC, TỰ DO thực sự.
Với biết bao hệ lụy của một cuộc chiến kéo dài, buộc ràng tới 3 thế hệ người Việt Nam (và rất nhiều quốc gia liên đới), lạ một điều (mà sao lại là lạ nhỉ?), là từ "người thua" đến "kẻ thắng", giờ đây, ai ai cũng mang một mặc cảm hoành đoạt (complexe de frustration), nói nôm na mà MẤT MÁT.
Trước hết là NGƯỜI DÂN THƯỜNG.
Người ra đi hàng triệu, bỏ xác ngoài biển khơi hàng ngàn, vạn, biết bao em gái ta, chị ta, cả mẹ ta nữa... bị kẻ hải tặc khốn kiếp dày vò làm nhục!
Chưa nói đến của cải, ai còn sống thì đều cảm thấy mất quê hương!
Người ở lại, hàng chục triệu nông dân bỗng dưng cảm thấy mất đất, không có quyền tự do hành xử trên "mảnh đất ông bà", trong khuôn viên do chính tay mình tạo dựng; hàng triệu công nhân mất việc, thất nghiệp hay bị kém sử dụng (sous-emploi), sống ngất ngư, lây lất qua ngày...
Trí thức, thì tản mác, bị lãng phí thảm hại, trừ một số rất ít kẻ xu thời (đời nào chẳng có?), người nào cũng cảm thấy mất tự do tư tưởng và sáng tạo.
Một tình trạng như thế, chỉ có lợi cho lũ gian manh. Một cuộc "đổi đời" kỳ cục như thế, mà nếu cứ nhất định muốn gọi nó, muốn gọi đó, là "cách mạng", thì là một cuộc cách mạng đã mất phương hướng. Phương hướng là cái tiêu ngữ trên mỗi đầu trang giấy, từ sau Tháng Tám 1945: ĐỘC LẬP - TỰ DO - HẠNH PHÚC.
Cho nên phải nghĩ lại, phải bình tâm mà nghĩ lại, nói theo thời thượng từ giữa thập kỷ 80, là phải ĐỔI MỚI TƯ DUY.
Tư duy là công việc của mỗi CON NGƯỜI, vì về bản chất, con người là một sinh vật có tư duy, có ý thức và vì có tư duy, có ý thức mà được / phải có quyền tự do lựa chọn mô hình hành động, cho chính mình (tự do cá nhân), cho chính cộng đồng mình (nhà mình, làng mình, nước mình...) và phải / được chịu trách nhiệm về chính sự lựa chọn đó.
Tôi rất thân và rất quí Nguyễn Huy Thiệp, hẳn thế, nhưng chính vì thế mà tôi không thể nào đồng ý với anh khi anh trả lời phỏng vấn báo Libération là "Tôi đã sống như một con thú". Con thú làm sao mà biết viết, biết in "Tướng về hưu", "Phẩm tiết"...?
Lẽ tất nhiên là tôi hiểu cái "ý tại ngôn ngoại" của anh: Cái mặt bằng kinh tế xã hội của một Việt Nam hiện nay trên đó "anh phải sống", sự ràng buộc của "cơ chế"? v.v...
Tôi nhớ lại, ngày 12/01/1983, trong buổi họp kỷ niệm 40 năm ra đời "Đề cương Văn hoá Việt Nam", ông Trường Chinh (tác giả chính của cái "Đề cương" đó) đã nói với các "nhà khoa học xã hội" Việt Nam: "Nếu không có một điều kiện tối thiểu về vật chất để sinh sống thì con người có thể trở thành con thú! "
Điều đó chẳng có gì mới lạ, vì bằng kinh nghiệm nghiệm sinh, nhiều nhà trí thức chúng tôi đã nghĩ và nói thế từ lâu. Điều mới và lạ, là cho đến tận lúc ấy, một vị lãnh đạo cao cấp của đảng Cộng sản Việt Nam mới nói ra như thế!
Mà con người, nhất là người trí thức Việt Nam, đâu chỉ đói rét vì miếng cơm manh áo? Đói tự do tư tưởng cũng có thể trở thành con thú!
Vì con thú, như con trâu, con bò, dù có no cỏ thì cũng chỉ biết theo đuôi! Theo đuôi con đầu đàn!
Bao năm qua, có biết bao con người Việt Nam chỉ biết theo đuổi kẻ cầm quyền, hoặc khốn khổ thay, là chỉ được theo đuôi người lãnh đạo và lại được "khen" là "có ý thức tổ chức, kỷ luật" và vì vậy được vào Đảng, được "đề bạt" làm kẻ "cầm quyền" bậc sơ trung cấp, để, nói cho cùng, cũng chỉ thành kẻ "chấp hành", "thừa hành", nhưng có được chút "quyền": Dối trên và nịnh trên, lừa dưới và nạt dưới!
Tôi nhớ lại, khoảng mười năm trước đây, một người học trò và là bạn trẻ của tôi, trước khi đi Nga làm luận án Phó tiến sĩ sử học, trong buổi "tiệc bia" tiễn biệt thầy trò, bè bạn, đã ngỏ với tôi lời "khuyên" tâm sự: - Nếu như thày mà cũng "đầu hàng cơ chế" nữa là bọn em mất nhờ đấy!
Anh ấy ở Nga 4 năm, về nước với bằng xanh phó tiến sĩ, thẻ đỏ đảng viên và, gia nhập "cơ chế", trở thành "người lãnh đạo" của tôi hôm nay! Tôi chẳng buồn mà cũng chẳng vui. Tôi chọn lựa cho mình một hướng đi: Gia nhập "Câu lạc bộ những người thích đùa". Tôi thường nói đùa như người Hà Nội vẫn thường đùa, anh ấy: - Cậu là đảng viên nhưng mà tốt!,
Câu nói đùa, mà "nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào" và hơn nữa, với câu nói ấy, có thể bị "quy chụp" là "phản động".
Tôi có một anh bạn, phải nói là rất thân, học với nhau từ thuở "hàn vi", lại cũng làm việc dưới một mái trường Đại học trên ba chục năm trường, cùng "leo thang" rất chậm, từ "tập sự trợ lý" đến full professor, chair-department. Anh là con "quan lớn", em của "nguỵ lớn" nhưng "có đức có tài", được chọn làm "hàng mẫu không bán - kiểu như ông Bùi Tín vừa làm ồn ào giới truyền thông một dạo, nhưng khác ông ta là cho đến nay anh không gửi "kiến nghị" kiến nghiếc gì, nói năng với TRÊN, với DUỚI bao giờ cũng "chừng mực", chẳng "theo đuôi" mà cũng chẳng là "dissident" của chế độ.
Anh thường bảo tôi: Thì về cơ bản cũng nghĩ như cậu thôi. Nhưng cậu thông cảm, mỗi người một tính một nết, một hoàn cảnh. Cậu "thành phần tốt", ăn nói táo tợn thì quá lắm người ta chỉ bảo cậu là "bất mãn cá nhân" thôi. Tớ "thành phần xấu", ăn nói bằng 1/10 cậu thôi cũng đủ bị "quy" là "phản ứng giai cấp" rồi!
O.K.! Anh cứ sống kiểu anh, tôi cứ sống kiểu tôi. Chỉ có mỗi một điều thôi, là vì vậy và vì nhiều lý do sâu xa khác nữa, nên nước ta chỉ có những nhà trí thức (intellectuals) chứ không có giới trí thức (intelligentsia).
Vậy thua thiệt thì Dân ráng chịu!
Bi kịch, nỗi bất hạnh của trí thức Việt Nam, của nước Việt Nam là ở đó...

* * *
Báo Đoàn Kết của một cộng đồng người Việt Nam bên Pháp đưa tin: Vào cuối năm ngoái (1990), có một ông uỷ viên Bộ chính trị kiêm bí thư thường trực Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam, nhân sang Paris dự Đại hội đảng Cộng sản Pháp, có tập hợp Việt kiều lại để nói chuyện. Trong khoảng 2 tiếng, ông chỉ "nói" mà không "nghe", lại còn bảo: "Sống ở nước ngoài, biết gì chuyện trong nước, tuổi 40-50 trở xuống (nghĩa là vào hạng tuổi con cháu ông) biết gì mà góp ý kiến!"
Xem chừng bà con Việt kiều, nhất là anh chị em "trí thức", bực mình với ông lắm.
Tôi là "trí thức" ở trong nước, ở Hà Nội nữa, nghe những lời lẽ ấy "quen tai" rồi. Cũng ông ấy, lúc còn làm "Bí thư thành uỷ" Hà Nội, khi thấy báo "Quân Đội Nhân Dân" 1987 công bố "Bức thư ngỏ gửi ông chủ tịch thành phố Hà Nội" của tôi, nói về việc "Phá hoại các di tích lịch sử của Thủ đô" đã cho triệu tôi lên trụ sở Thành uỷ và "thân mật" bảo ban 2 điều:
- Nếu anh là công nhân, anh nói (nôm na, tục tằn) kiểu đó tôi còn hiểu được, đằng này anh là giáo sư, là trí thức, sao lại nói (nôm na, "toạc móng heo, treo móng giò") kiểu đó?
- Nếu anh nói thế, "tôi" thì "tôi" nghe được, nhưng những "người khác", họ không nghe được! Từ nay anh nên "thay đổi" cái "giọng nói" của anh đi!
Tôi cũng "trả lại ông" 2 điều:
- Đảng bảo: "Trí thức là của Công Nông và cũng là Công Nông", vậy nếu công nhân - theo ông - nói được như vậy thì trí thức cũng nói được như vậy. Có gì (theo ông) là khác nhau giữa giọng "trí thức" và giọng "công nhân"?
- Ông không khác gì người khác. Nếu theo ông, ông "nghe được" vậy thì người khác cũng phải nghe được. Vậy tôi chả việc gì phải "đổi giọng" cả!
Thực ra, tôi biết thừa cái "giọng tôi" chính ông nghe không được nên ông mới "góp ý" cho tôi, nhưng ông lại cố tình đổ cho là người khác nghe không được. Hơn nữa ông lại cố tách "tôi" ra khỏi công nhân, "đề cao" tôi là "trí thức", để chỉ cốt răn dạy tôi: Với vị thế của anh, anh không được ăn nói với chúng tôi (những nhà lãnh đạo) bằng cái giọng như vậy!
Bà xã tôi lúc ấy còn sống và là giáo viên trường Trung học Trưng Vương nổi danh ở Hà Nội - nghe tin tôi được / bị phải gọi lên thành uỷ, lấy làm lo lắng lắm, bảo tôi ("giọng" bà ấy bao giờ cũng vậy, con gái nhà "tư sản Hà Nội" mà): - Anh lên đấy, liệu mà ăn mà nói! Anh có sao, chỉ khổ vợ con! Chùa Một Cột có bị phá để làm Bảo tàng Lăng Bác, nếu có hại thì hại cả nước, đâu dính gì đến riêng anh mà anh cứ "la làng" lên, một con én chẳng làm nổi mùa xuân, "ăn cái giải gì" mà cứ nói, chỉ khổ vào thân; có cái giấy Úc mời sang kỷ niệm 200 năm nước "nó" đấy, khéo các "bố" ấy lại không cho đi, vợ con lại mất nhờ.
Ôi, làm "thằng người Việt Nam", làm "trí thức Việt Nam" biết bao là "hệ luỵ".

Tôi đưa chuyện HỌC TRÒ, BÈ BẠN, VỢ CON dàn trải trên mặt giấy đâu phải để "nói xấu" họ, nhất là nói về vợ tôi (nay đã mất, cầu cho linh hồn bà ấy tiêu diêu miền cực lạc) mà trong tâm khảm tôi, bao giờ tôi cũng cảm thấy mình xấu tính hơn bè bạn - vợ con - học trò. Tôi chỉ muốn nói về thân phận trí thức ở cái nước Việt Nam mang cái nhãn hiệu Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa mà thực ra là còn đang rất kém phát triển này: Ông uỷ viên Bộ chính trị ấy, kiêm bí thư Trung ương này, kiêm bí thư thành phố này... ai chả nghĩ là ông ấy cộng sản hơn ai hết nhưng thực ra thì ứng xử của ông ấy từ Hà Nội đến Paris lại "gia trưởng", "nho giáo cuối mùa" hơn ai hết!
Khổ vậy đó, Cho nên giáo sư Alexander Woodside, từ góc trời tây bắc của xứ tuyết Canada mới hạ một câu về cách mạng Việt Nam: "The spiritual and cultural milieu from which the vietnamese revolution sprang was both confucian and comunist" (Cái môi trường tâm linh và văn hoá mà từ đấy cách mạng Việt Nam phóng tới là cả Khổng Nho và Cộng sản).

* * *
Ông giáo sư Từ Chi một trong những bạn bè thân thiết của tôi từ một "cậu Tú" ở Huế đi Nam tiến ngay sau ngày 23/9/1945 và trở thành cộng sản, rồi năm 1954 trở về học đại học để trở thành một nhà dân tộc học.
Ông đi làm chuyên gia ở Tây Phi, thương một người con gái Hà Nội nhà nghèo vì chiến tranh mà lưu lạc mãi sang tận bờ sông Niger. Ông quyết đưa người phụ nữ bất hạnh đó trở về Tổ quốc chỉ bằng cách kết hôn với nhau, dù ông biết trước rằng hành động dấn thân ấy ông sẽ phải về nước trước thời hạn.
Và cho đến 25 năm sau, ông không bao giờ được ra nước ngoài, dù ông, không có bất cứ một hành vi gì phạm pháp. Cái án được phán quyết không theo "Luật hôn nhân và gia đình" của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành năm 1960, mà là theo đạo lý hủ Nho.
Về nước năm 1965, qua ngã Moscow, ông dừng chân ở đó 5 ngày, về Hà Nội gặp tôi ở quán cà phê Sính, ông rỉ tai tôi: "Chế độ Xô Viết không thể nào viable" (nguyên văn có nghĩa: không thể "thọ" được).
Đấy là lời tiên tri đúng trước 1/4 thế kỷ!
Vì sao NƯỚC và ĐẢNG có những người trí thức giỏi đến thế mà bây giờ cả NƯỚC, cả ĐẢNG đều lâm vào tình huống "khủng hoảng toàn diện"?
Từ năm 1965, cứ mỗi lần nghe thấy lời khuyến dụ tôi vào Đảng, ông lại bảo tôi: - Tùy ông đấy, nhưng... nếu ông có vào thì đừng để người ta đuổi ông ra! Ông biết kỷ luật của Đảng ông là "kỷ luật sắt" mà tôi thì ông cũng biết quá rõ tôi là người "tự do", tính ưa phóng khoáng, là người "bất cơ" (không chịu ràng buộc) theo chữ dùng để đánh giá mình của nhà sử gia họ Tư Mã bên Tàu!
Tôi hỏi ý kiến ông về tính chất Cách mạng Việt Nam. Ông trả lời: Cụ Hồ bảo nước mình là một nước nông nghiệp, dân tộc mình là một dân tộc nông dân. Cứ đấy mà suy, thì cuộc "Cách mạng" bây giờ hẳn vẫn là một cuộc khởi nghĩa nông dân.
Khác chăng là trước, khởi nghĩa nông dân do một số nhà nho xuất thân nông dân như Quận He, như Cao Bá Quát cầm đầu, bây giờ là do những người cộng sản cũng xuất thân ở nông thôn và có căn tính nhà nho, như cụ Hồ, như ông Trường Chinh... lãnh đạo. Ông đọc bài ông Nguyễn Khắc Viện rồi chứ, "Confucianisme et Marxisme" (La Pensée, No 105, Octobre 1962). Ông Viện là cộng sản và là con cụ nghè Nguyễn Khắc Niệm đấy!
Đầu thế kỷ XX, trong xã hội yêu nước vẫn âm ỉ một chủ nghĩa yêu nước xóm làng (village patriotism, chữ của Alexander Woodside). Yêu nước chống Pháp kiểu Nho của cụ Phan Bội Châu thất bại ở 2 thập kỷ đầu của thế kỷ XX. Và dòng trí thức Nho gia tàn lụi.
Một số con cháu nhà Nho, một số con cháu nông dân, một số con cháu nhà công thương mới trở thành lớp trí thức Tây học. Một số ấy chấp nhận le fait colonial và trở thành công chức cho Tây, như ông cụ ông là kỹ sư canh nông, như ông cụ tôi là bác sĩ...
Một số khác, yêu nước hơn, mong áp dụng ở Việt Nam những lý tưởng Mác-Lê thế kỷ XIX. Cái chủ nghĩa quốc gia của kiểu tư sản mà ông Nguyễn Thái Học, ông Xứ Nhu, kể cả cậu ruột ông đã khởi xướng ở Việt Nam Quốc dân đảng thì đã bị thực dân vùi dập khủng bố tan hoang từ thập kỷ 30. Còn lại cái chủ nghĩa quốc tế của Mác-Lê mà Nguyễn Ái Quốc và những nhà cộng sản mang về áp dụng vào một xã hội nông dân châu Á nghèo khổ, khác hẳn cơ địa xã hội tư sản Tây Âu, nơi hình thành chủ nghĩa Marxisme. Người cộng sản Việt Nam có căn tính nông dân - Nho giáo đã gần Dân hơn người tiểu tư sản Tây học ở thành thị. Họ đã vận động và tổ chức được phong trào nông dân và toàn dân đánh Pháp, đuổi Nhật, làm cách mạng tháng Tám thành công. Kháng chiến là sự nối dài của Cách mạng tháng Tám.
Kháng chiến đã thắng lợi. Chủ nghĩa thực dân phương Tây đã bị hóa giải.

* * *
Dưới thời Quân chủ - Nông dân - Nho giáo, ở Viễn Đông, có một ước mơ ĐẠI ĐỒNG. "Thế giới ĐẠI ĐỒNG, thiên hạ vi CÔNG".
Ở đầu thập kỷ 20, trong một bài viết, Nguyễn Ái Quốc cho rằng cái chủ nghĩa ĐẠI ĐỒNG của Khổng Nho ấy rất gần với chủ nghĩa Cộng sản.
Alexander Woodside nhận xét: Ông Mao phê phán rất dữ dằn Khổng Nho còn ông Hồ rất nhẹ nhàng với Nho Khổng.
Xây "đời sống mới" năm 1946, ông Hồ nêu khẩu hiệu của Nho Khổng: CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH CHÍ CÔNG VÔ TƯ. Dạy đạo đức cho cán bộ, ông Hồ lấy câu Nho Tống: "Tiên ưu hậu lạc". Về giáo dục xã hội, ông cũng dùng câu có sẵn của Khổng Mạnh, đại loại như "Bất hoạn bần nhi hoạn bất quân..." (Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng...) hay là "Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người", v.v... và v.v...
Đến di chúc, ông cũng đưa vào một câu trích dẫn của Đỗ Phủ đời Đường: "Nhân sinh thất thập cổ lai hy". Thơ chữ Hán của ông, có nhiều câu, ý phỏng theo Đường thi...
Nhưng cái mô hình xã hội chủ nghĩa kiểu Stalin hay kiểu Mao (Staline Mao hoá) dù đã ít nhiều Hồ hoá, Việt Nam hoá cũng tỏ ra không thành công trước thực tiễn "bướng bỉnh" của một nước Việt Nam nhỏ bé - tiểu nông.
Người Cộng sản Việt Nam đã lầm khi tưởng rằng dù với cơ cấu kỹ thuật cũ, ít thay đổi, cứ làm đại việc công hữu hoá (quốc hữu hoá, tập thể hoá, hợp tác hoá...) thì vẫn xoá bỏ được áp bức bóc lột, cải tạo xã hổi chủ nghĩa thành công. Hoá ra là một công thức đơn giản hơn:
CÔNG HỮU HOÁ + CHUYÊN CHÍNH (VÔ SẢN) = (QUÁ ĐỘ sang) CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Tôi và ông Từ Chi bàn mãi về chuyện này. Sau thời công xã nguyên thuỷ, chế độ áp bức bóc lột đầu tiên nảy sinh ở đất Việt với chế độ "thủ lĩnh địa phương", lang đạo, phìa tạo (tiếng Anh tạm dịch là local chieftains) khi ruộng đất còn gần như y nguyên là "của công", nhưng "dân đen" là tiểu nông tản mạn, còn thủ lĩnh giữ quyền "thế tập" theo dòng máu.
Dân gian nói giản dị:
Trống làng ai đánh thì thùng Của chung ai khéo vẫy vùng thành riêng!
Thì giờ đây, ruộng hợp tác, của kho hợp tác, bọn bí thư, chủ nhiệm, kiểm soát đều ở trong một cơ sở Đảng chuyên chính, chúng sẽ "vẫy vùng" thành riêng thôi!
Ba năm liền từ 1976 đến 1979, tôi đi Định Công (Thanh Hoá), ngày- khảo cổ, đêm- khảo kim. Và 3 ngày liền cuối năm 79, tôi thuyết trình trước Tỉnh ủy Thanh Hóa về sự phá sản của mô hình làng Định Công (người ta tuyên bố "Định Công hóa" toàn tỉnh Thanh Hóa, với bài báo tràng giang "Bài học Định Công" của Bí thư Trung ương Tố Hữu). Thính giả cứ bỏ dần trước sự "vắng mặt" của Bí thư, Phó bí thư Tỉnh uỷ (người ta phải "nhìn Trên" để định thế ứng xử). Còn một ông thường vụ phụ trách tuyên huấn kiên trì nghe 3 ngày, để sau này khi Định Công phá sản hoàn toàn, đã khoa trương tuyên bố, chứng tỏ ta đây sáng suốt hơn các nhà lãnh đạo khác:
- "Lúc bấy giờ (79), ai dám nghe Trần Quốc Vượng nói, ngoài tôi?" (ông ấy bây giờ là Bí thư Đảng uỷ Bộ Văn hoá - Thông tin).
Năm 1982 tôi đi Liên Xô thuyết trình khoa học. Bài viết của tôi bằng tiếng Việt, Dương Tường dịch sang tiếng Anh, Từ Chi dịch sang tiếng Pháp, bà Nona Nguyễn Tài Cẩn dịch sang tiếng Nga. Bà Nona bảo: Bài của anh hay lắm, nhưng thuyết trình ở Paris thì hợp hơn, nói với trí thức nước tôi (Liên Xô), họ không hoan nghênh đâu! Mà quả nhiên!
Về nước, tôi briefing cho bạn bè nghe về Liên Xô và nói lén qua hơi men: "Dứt khoát hỏng!" Và đấy là lần duy nhất tôi "được" đi Liên Xô. Đầu năm 1983, giáo sư Phạm Huy Thông cho đăng bài của tôi lên trang đầu Tập san Khảo cổ học. Đảng uỷ Uỷ ban Khoa học Xã hội viết bản báo cáo dài lên ban Tuyên huấn Trung ương quy kết tôi 4 tội:
- Chống chủ nghĩa Mác-Lê: vì tôi bảo: Công hữu hoá có thể đẻ ra bóc lột.
- Chống công nghiệp hoá: vì tôi bảo: Nông nghiệp phải / còn là mặt trận sản xuất hàng đầu.
- Chống đấu tranh giai cấp: vì tôi bảo: Nông dân khởi nghĩa (ngay cả ăn cướp) cũng không đánh vào người làng, mà chủ yếu đi cướp nơi khác và đánh vào Quan.
- Chống chuyên chính vô sản: vì tôi bảo: Chuyên quyền đẻ ra tham nhũng.
Vụ án "văn tự" này kéo dài 3 năm, không có kết luận. Ba năm tôi được "ngồi nhà", khỏi đi Tây và nói tiếng Tây! Cuối năm 1986, khi Đại hội VI đảng Cộng sản Việt Nam kết luận lại trong nghị quyết là Nông nghiệp là "mặt trận hàng đầu", giáo sư Phạm mỉa mai ở trụ sở Uỷ ban Khoa học Xã hội: Thế bây giờ Đảng uỷ đúng hay Trần Quốc Vượng đúng?
Nhưng "nỗi ám ảnh của quá khứ" vẫn không tha người làm Sử như tôi (mà nói theo nhà Phật thì kiếp này còn là "quả" của kiếp trước kia mà). Năm 1985, nhân năm "quốc tế người già", ông Nguyễn Hữu Thọ nhờ người nói tôi viết bài "Truyền thống người già Việt Nam". Báo Đại Đoàn Kết của ông không "đoàn kết" nổi bài của tôi, tôi nhờ báo Tổ Quốc của ông Nguyễn Xiển đăng dùm. Rồi năm 1986 có hội Khoẻ Phù Đổng của đoàn Thanh Niên, ông Bí thư Thanh Niên nhờ tôi viết bài "Phù Đổng khoẻ". Mùa hè nóng bỏng 86, trước Đại hội VI 5 tháng, ông Bí thư Trung ương Đảng phụ trách tư tưởng H.T. đem hai bài của tôi ra "chửi bới" giữa Hội nghị mở rộng Ban Chấp hành Hội Nhà báo Việt Nam, đề bạt Nguyễn Khắc Viện, Trần Quốc Vượng, Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng là 4 trí thức chống đối.
Ông Giàu, thầy học cũ của tôi, đâm thư kiện. Ông H.T. biên thư trả lời (tôi còn giữ làm "chứng từ thanh toán") bảo: Tôi không động đến anh, tôi chỉ động đến Trần Quốc Vượng, vì anh ta viết "Các vua Trần nhường ngôi" ám chỉ đòi chúng tôi rút lui, và viết "Thánh Gióng bay lên trời" ám thị chúng tôi đánh giặc xong còn cứ ngồi lại giành quyền vị...!
Khốn khổ, vì sao các ông ấy cứ "mỗi lời là một vận vào khó nghe" như vậy? Hay là tại dân gian "nói cạnh" các cụ: Có tật giật mình?

* * *
Xã hội Việt Nam truyền thống cũ có nhiều nét hay, vẻ đẹp nên ở cạnh nước lớn, bị xâm lăng, đô hộ, đè nén hàng ngàn năm vẫn trỗi dậy phục hưng dân tộc, "trở thành chính mình". Nhưng xã hội quân chủ - nông dân - nho giáo từ sau thế kỷ XV có nhiều "khuyết tật trong cấu trúc" - nói theo các nhà khoa học hôm nay:
Ở trong NHÀ thì có thỏi GIA TRƯỞNG, tuy tâm niệm "con hơn cha là nhà có phúc" mà vẫn không thích "ngựa non háu đá", "trứng khôn hơn vịt".
Ở trong LÀNG thì có nạn CƯỜNG HÀO, với tinh thần ngôi thứ, chiếu trên, chiếu dưới, "miếng giữa làng hơn sàng xó bếp".
Ở trong VÙNG thì có nạn SỨ QUÂN, thủ lĩnh vùng thích "nghênh ngang một cõi", gặp dịp là sẵn sàng "rạch đôi sơn hà".
Ở cả NƯỚC thì có nạn QUAN LIÊU, quan tham nhũng, tân quan tân chính sách, luật không bằng lệ, kiện thì cứ kiện nhưng "chờ được vạ má đã sưng", nên chỉ cứng đầu thì dại, "không ngoan" nhất là "luồn cúi". Và trí thức "lớn" thì cũng tự an ủi "gặp thời thế thế thời phải thế".
Vì ngoài thì "bế môn toả cảng", trong thì "chuyên quyền độc đoán", cho nên sĩ khí ắt phải bạc nhược.
Thế giới giờ đây thay đổi đã nhiều. Song, trong nước mình thì chưa đổi được bao nhiêu. "Nỗi ám ảnh của Quá khứ" vẫn còn đè nặng.

Chỉ còn một cách để "đổi đời" cho DÂN, cho NƯỚC: Đó là xây dựng một chế độ dân chủ, một nhà nước pháp quyền, một nền kinh tế công - nông - nghiệp với thị trường tự do, một tư tưởng cởi mở, rộng dung, khoáng đạt, tự do, một nền văn hoá đa dạng, giữ cho được bản sắc tốt đẹp của dân tộc nhưng biết hoà nhập với thế giới, với nhân gian...
Tóm một chữ thì không phải là chữ "ĐẤU" mà là chữ "HÒA": HÒA BÌNH, HÒA HỢP, HÒA THUẬN, HÒA GIẢI...
Chẳng những NHÂN HÒA mà cả NHIÊN HÒA (hoà hợp với thiên nhiên, tự nhiên)
"Hoà nhi bất đồng"... mong lắm thay!
Trần Quốc Vượng  - Cornell 01/5/1991
Trích: NỖI ÁM ẢNH CỦA QUÁ KHỨ (Trong Cõi - Bài số 17, nxb Trăm Hoa, New York 1993, trang 272-282)
THÔNG BÁO CÔNG KHAI TỪ BỎ ĐẢNG 
Thành phố HCM ngày 6 tháng 12 năm 2013
      Hưởng ứng lời tuyên bố từ bỏ Đảng của Luật gia Lê Hiếu Đằng và nhà báo, TS Phạm Chí Dũng, tôi, Nguyễn Đắc Diên, Bác sĩ Nha khoa, đảng viên, số hiệu thẻ đảng 3444669, THÔNG BÁO CÔNG KHAI từ bỏ Đảng Cộng sản Việt nam.
Xuất thân trong một gia đình có truyền thống chống các kiểu thực dân và áp bức, sau 1954 tuy sống ở đô thị miền Nam nhưng gia đình tôi là cơ sở CM nội thành, đã được tặng thưởng Huân Chương Kháng Chiến Hạng Nhất theo QĐ số 801/HĐNN, có Giấy Chứng Nhận Người Có Công Với Cách Mạng. Thế nên đã một thời, tôi cũng từng tràn đầy nhiệt huyết với khát vọng đồng hành cùng Đảng xây dựng một đất nước công bằng dân chủ và văn minh.

Song tất cả những gì mà Đảng Cộng sản đã thể hiện từ ngày Bắc Nam thống nhất khiến tôi đi từ thất vọng đến thất vọng khác.
      Tôi không tin Đảng sẽ dẫn dắt dân tộc cập được bến bờ vinh quang bằng các cương lĩnh kiểu như cương lĩnh 1991, hiến pháp 2013. Bởi đó là những cương lĩnh u ám, những hiến pháp tiểu xảo.
      Với thỏa ước Thành Đô 9/1990, Đảng đã đánh mất cơ hội ngàn vàng trong sự nghiệp bảo toàn chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ khi sống cạnh một nước lớn có tiền sử hàng ngàn năm áp chế dân tộc Việt.
      Thay vì theo đường quan mà cộng đồng thế giới văn minh đã khai phóng để đi, Đảng lại liên tục quàng vào bụi rậm. Câu châm biếm "Đảng tiên phong đi trước, nhân dân tiếp bước theo sau, dân hỏi Đảng đi đâu, Đảng lầu bầu: đang định hướng" là hình ảnh vừa bi vừa hài, nhưng mà thực và sống.
      Khi vào Đảng tôi đã từng thề, rằng tuyệt đối trung thành với Đảng. Nay, tôi thà phản bội lời thề trung thành với Đảng còn hơn phải theo Đảng mà phản bội lại quyền lợi dân tộc, dân sinh, dân chủ, dân quyền mà lẽ ra dân tộc tôi phải được hưởng từ 38 năm về trước.
      Nhưng rồi có thể một ngày nào đó, khi Đảng thực sự hoàn lương, nắm vững ngọn cờ dân tộc, vứt bỏ ngọn cờ CNXH, tôi lại phấn đấu xin vào đảng”.
Bs. Nguyễn Đắc Diên 
ĐT: 0914002424 
Email: dien1789@yahoo.com
Tác giả trực tiếp gửi cho BVN

0 nhận xét:

Đăng nhận xét