Thứ Tư, 4 tháng 12, 2013

Bài viết hay(716)

Nhớ câu nói "bất hủ" của một ông đại tá Malaysia nói với tôi khi tôi còn là một "thuyền nhân" vừa được cứu sống và đặt chân vô "trại tị nạn" Pulau Bidong năm xưa: "Dân VN của mày thì chuyện gì mà không dám làm?"  Trải qua 30 năm sống "lưu đày biệt xứ" đến nay, tôi chiêm nghiệm và thấy rõ câu nói này hoàn toàn chính xác.  Người VN chúng ta dám làm mọi chuyện nhưng hình như "mộng" quá lớn mà năng lực bao giờ cũng có hạn nên rốt cuộc chẳng có chuyện gì ra hồn; nhất là chuyện đoàn kết thì chắc chắn là không bao giờ làm được (trừ phi có ngoại xâm!).  Khi ra khỏi xứ cộng sản độc tài rồi thì người VN y hệt như con chim xổ lồng nên cứ bay tung tăng thoải mái... Khi có được một cái gì đó trong tay, ví dụ như một tờ báo hay một trang web nào đó rồi thì ...viết xả láng; nhất là khi ghét ai thì tha hồ ..."chửi vung xích chó"!  Ngẫm nghĩ thằng Mỹ đểu thiệt khi bây giờ tôi mới hiểu vì sao chính phủ Mỹ muốn dân VN phải sống dưới sự cai trị độc tài của VC: Ăn cơm Mỹ mà còn chửi Mỹ dài dài thì Mỹ cho sống dưới tay VC mới xứng đáng kia chứ? Chỉ có chế độ độc tài mới cai trị được dân VN khi đưa tất cả vào khuôn khổ kỷ luật, không thể tự do vô chính phủ, càng không thể chấp nhận loại người bất mãn ưa phá hoại, chống đối, nổi loạn. Lúc nào ý thức tự giác được nâng cao thì may ra lúc ấy mới có thể xây dựng một "xã hội dân sự" thật sự tự do, dân chủ.
Hahaha, hôm nay tôi lại chọc chúng chửi nữa rồi!
 Hiến pháp, pháp luật, đạo đức và tham nhũng

Công cuộc phòng, chống tham nhũng năm 2013 của Việt Nam tiếp tục thất bại, dẫm chân tại chỗ, thụt lùi và có phần bế tắc vì những cơ chế vận động đặc thù của thực tiễn xã hội sau khi việc thực hiện nghị quyết trung ương 4 khóa XI không có kết quả khả kiến và không đạt được các mục tiêu thanh lọc đảng. Sự biến hóa của nhóm lợi ích và lợi ích nhóm cùng mối quan hệ cấu kết hòa lẫn quyền lợi chính trị - kinh tế của những nhóm này với các tổ chức và cá nhân quyền lực đảng – nhà nước trong hoạt động kinh tế - chính trị, sự bất hợp lý trong phân cấp quyền lực và quản lý lợi ích giữa trung ương và các địa phương cùng với hiện trạng bất cập, thiếu nhất quán, đồng bộ, và hiệu lực của hệ thống pháp luật, sự thiếu độc lập và không minh bạch, rạch ròi về chức năng của các cơ quan trong hệ thống tư pháp đã dẫn đến tình trạng ngày càng sa sút về chất lượng của nhà nước pháp quyền trong lãnh đạo, quản lý và quản trị quốc gia nói chung và xử lý nạn tham nhũng nói riêng.
Tình trạng đó đã được phân tích, báo động trên diễn đàn chính thống của các cuộc họp Quốc hội, ban chấp hành trung ương đảng, Chính phủ và các cơ quan, tổ chức chức năng liên quan; đến nỗi, trong một phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ông Chủ tịch phải ta thán rằng, tham nhũng phát hiện nhiều, nhưng có thấy xử lý gì đâu. Rồi chất vấn về tỉ lệ án treo cao trong các vụ xử án tham nhũng. Rồi chất vấn liệu cơ quan chống tham nhũng có tham nhũng không v.v...
Tham nhũng là hiện tượng chung, hình thành theo qui luật chung của các hình thái chính trị - nhà nước; song mức độ chất lượng phòng, chống, xử lý hiện tượng này lại là đặc thù của mỗi quốc gia.
Việt Nam là một trong những quốc gia trong nhiều năm vừa qua được các tổ chức quốc tế và theo cảm nhận, trải nghiệm của người dân trong nước được đánh giá là thuộc top đầu của tham nhũng và thiếu hiệu quả trong phòng chống tham nhũng. Đó là đặc thù Việt Nam. Hiện trạng đặc thù đó không thể đổ lỗi cho truyền thống văn hóa đạo đức hoặc mặt bằng dân trí được như cách thường dùng để giải thích các “đặc thù” khác, chẳng hạn khái niệm dân chủ, nhân quyền. Chưa ai đánh giá nguyên nhân của tham nhũng từ truyền thống văn hóa, bản sắc dân tộc. Cũng không thể vin vào tình trạng nghèo để giải thích về tham nhũng vì có những nước nghèo hơn Việt Nam nhưng tình trạng đạo đức, văn hóa xã hội nói chung và hiện tượng tham nhũng của họ nói riêng còn khá hơn nước ta. Vậy thì chỉ còn một địa chỉ để giải thích cho hiện trạng suy đồi của đất nước chính là toàn bộ thiết chế tinh thần (tư tưởng, chính trị, văn hóa, giáo dục, pháp luật...và hệ thống chuẩn mực, giá trị chứa trong đó) và hệ thống tổ chức, bộ máy, cơ chế vận hành hệ thống trên vào cuộc sống do thể chế chính trị tạo ra. Nói tóm lại, hệ thống chính trị, cao nhất là đảng cộng sản, với tư cách là người tạo lập, xây dựng, hình thành, lãnh đạo, quản lý, sử dụng các công cụ tinh thần và vật chất để cai trị xã hội Việt Nam mấy chục năm qua, qua những điều chỉnh, sửa đổi, củng cố cũng chỉ tự mình làm ra, là chủ thể chính và là nguyên nhân nhất quyết của tình trạng suy đồi, tham nhũng của đất nước.
Các biểu hiện cụ thể từ cái nguyên nhân gốc có tính hệ thống đó như sau:
1. Cả tin và dựa vào chủ nghĩa Mác – Lê nin về triết học, chính trị, đạo đức; thiết lập một xã hội đức trị nửa vời theo kiểu tự giác phê bình, tự phê bình kết hợp với bạo lực trực tiếp phi pháp nhằm tạo ra sự đe dọa và sợ hãi cho nhân dân; xóa bỏ văn hóa đạo đức truyền thống của dân tộc được hình thành từ nền tảng xóm làng, họ hàng, gia đình, và kể cả kiểu yêu nước “phi vô sản”, ý thức công dân của Tây Âu được du nhấp từ 1858 đến 1945 và tích hợp vào hiến pháp 1946, vốn là những yếu tố có thể kế thừa để làm lành mạnh, hỗ trợ tốt cho xã hội pháp quyền hiện đại.
2. Ngoan cố, bảo thủ do dốt nát hoặc tham lam, hoặc hèn nhát, duy trì phi lý và quá lâu phạm trù chủ nghĩa xã hội trong định hướng phát triển đất nước, dẫn đến phải giữ vô điều kiện độc quyền lãnh đạo của đảng nên không tiến nhanh được trong việc xây dựng hệ thống pháp luật theo yêu cầu của nhà nước pháp quyền nói chung, đặc biệt là những bộ luật liên quan đến bảo đảm quyền tự do, dân chủ, nhân quyền của công dân, bảo vệ và tạo điều kiện cho công dân tham gia việc quản lý đất nước, tự bảo vệ mình, chống những cái xấu, cái sai, chống tham nhũng.
3. Cố ý bỏ qua nhận thức về chân lý quyền lực là tham nhũng, quyền lực tuyệt đối (kể cả độc tài toàn trị, độc tài đảng trị) tạo ra tham nhũng tuyệt đối nên không có những quyết sách phù hợp để chống tha hóa quyền lực chính trị và tham nhũng. Có thể trực tiếp hoặc gián tiếp dung túng hoặc tham gia tham nhũng (đánh giá về một bộ phận không nhỏ trong nghị quyết trung ương 4 khóa XI chính là sự thú nhận này); kể cả những người lãnh đạo cao nhất của đảng, nhà nước, của cơ quan phòng chống tham nhũng, thanh tra cũng không loại trừ khả năng bị nghi ngờ này. Đã rất lâu, câu hỏi đặt ra là tại sao với lương như vậy, đảng viên cán bộ công chức vẫn có tài sản lớn bằng nhà đất, xe cộ, cổ phần, tài khoản, cho con tự túc du học nước ngoài đã trở thành vấn nạn; đảng đã nghe, đã biết nhưng không xử lý hoặc không biết xử lý. Từ đó, lâu ngày, có thể suy ra rằng đảng tạo lập một hệ thống tất yếu xảy ra tham nhũng, rồi phòng chống lấy lệ, ngấm ngầm duy trì nó để nuôi lại hệ thống vì không thể cải cách chế độ thu nhập công khai, hợp pháp từ ngân sách nhà nước; từ đó, tạo ra một sự phấn đấu khích lệ giả tạo đối với cán bộ để dẫn tới chạy chức chạy quyền chạy vốn chạy bằng cấp để hưởng bổng lộc, hoa hồng..., cũng là tham nhũng đẻ ra tham nhũng.
4. Bất lực trong việc phòng chống tham nhũng vì những lý do trên, và vì không kỷ luật do sợ oán thù; kỷ luật hết thì lấy đâu ra cán bộ!
v.v..
Năm 2013, lại tiếp tục kê khai tài sản để thực hiện minh bạch. Bản kê khai dài đến hàng chục trang giấy A4; số người có trách nhiệm kê khai chiếm đến 1/3 trong các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp nhà nước; dĩ nhiên tất cả là đảng viên. Nội dung bao gồm cả nhà đất, tiền, đồ vật quí, xe cộ vật tư công trình, cây cảnh...trong nước và ở nước ngoài. Thời gian, công sức, giấy tờ phục vụ kê khai đó chắc tính ra sẽ là một khối lượng lớn, song trong bối cảnh không có những thành tố có giá trị công cụ mạnh của hệ thống bị cố tình làm hỏng nói trên, phỏng khối lượng lớn đó có tác dụng gì. Rồi cũng chỉ vừa đánh lừa nhân dân, vừa gây tốn kém cho nhân dân.
Việc kê khai đó, cùng với những cố gắng gãi ngứa ghẻ khác như không bố trí một số chức danh cán bộ chủ chốt cấp huyện, tỉnh là người địa phương, đảng đã tự thú rằng đạo đức tự giác cộng sản chủ nghĩa của người đảng viên cộng sản, phương thức tự phê bình và phê bình, pháp luật xã hội chủ nghĩa đã không đủ khả năng làm cho đảng viên tốt, rằng đảng viên cộng sản là những người xấu và vi phạm pháp luật tiềm năng.
Vậy thì khẳng định bản chất, truyền thống vai trò tốt đẹp dủa đảng trong hiến pháp là dựa vào cái gì hay đó cũng chỉ là những điều hão huyền nhằm đưa đẩy đến hành vi trấn lột, cưỡng chiếm quyền lãnh đạo. Đã đúng như vậy, đây là sự tham nhũng lớn nhất trong đời sống đất nước: đòi hỏi nhân dân tiêu tốn sự hy sinh, sự chịu đựng mất dân chủ tự do, chấp nhận sự giả vờ biểu quyết đồng thuận với cái mà mình thấy không cần thiết, không chính danh, không can dự chỉ vì sợ hãi do bạo lực, đe dọa. Hiến pháp cũng tham nhũng.
Xích Tử
 Bắc Kinh đang làm gì đấy?
Trong bối cảnh sự căng thẳng trong vùng đang nổi lên, xin trân trọng chia sẻ một bài đáng đọc của GSTS Mark Beeson do tôi đã dịch (dù thừa nhận chưa chuẩn 100%).
Mark Beeson là một giáo sư về Chính Trị Quốc Tế tại TĐH Murdoch, Úc (và người quen của tôi)
Xin biết ý kiến của các bạn!
Chân thành,
Jonathan London
Trung Quốc đang làm gì? Đối với những người làm và quan sát chính trị chẳng có một câu hỏi nào quan trọng hơn điều này. Sự khủng hoảng trên Biển Hoa Đông làm câu hỏi này càng thêm rõ ràng hơn nữa, đặc biệt trong lúc những căng thẳng đang nổi lên sau ngày 23/11. Khi Trung Quốc (TQ) tuyên bố Thiết lập một vùng phòng không (VPK) bao gồm những khu vực đang tranh chấp với các nước láng giềng và đòi hỏi bất kỳ máy bay bay qua vùng này nộp kế hoạch bay với Bắc Kinh.
Hoa Kỳ đã cho ngay hai máy bay B52 bay qua khu này mà không báo trước (dù có nói đã có kế hoạch cho chuyến đi này từ lâu) cả Nhật và Hàn Quốc cũng đã phản đối vùng phòng không này.
Để làm sáng tỏ những ý định của TQ quả là khó. Chưa rõ cái vùng phòng không (VPK) là một phần của chiến lược đã được vạch ra kỹ và có được sự ủng hộ một cách rộng rãi (trong bộ máy), hay chỉ là một sáng kiến xuất phát từ quân sự ngày càng có ảnh hướng của TQ. Quá trình vạch ra chính sách ngoại giao của TQ đã từ lâu nổi tiếng là không rõ ràng, nhưng nó sẽ có ích để biết liệu những hành động gần đây của TQ có sự ủng hộ nhiệt tình của Chủ tịch Tập Cận Bình, là một ví dụ.
Nhưng, bất chấp chính sách này bắt nguồn từ đâu, tác giả của nó được coi là rất khiêu khích. Vì thế, có lẽ rủi ro tính trước có thể đặt giả thuyết là được thiết kế để kiểm tra những phản ứng. Trung Quốc chỉ đơn giản là có một đời hỏi như thế? Và nếu không, nó sẽ gây ra một phản ứng như thế nào?
Điều quan trọng là Hoa Kỳ sẽ làm gì? Nhìn vào ngắn hạn, VPK của TQ có vẻ là một sai lầm lớn trong phán đoán. Toàn khu vực đang bất ổn, về phía Hoa Kỳ đang tìm cách để lập lại sự ổn định và chiến lược chắc chắn. Trong những điều kiện như thế này Hoa Kỳ ít có lựa chọn nào ngoài việc gửi một thông điệp sẽ không thể bị đe dọa bởi TQ và sẽ tôn trọng những trách nhiệm đối với liên minh Nhật Bản.
Ở TQ có một số nhà chiến lược rất thông minh và chắc họ đã đoán được phản ứng này của Hoa Kỳ từ trước. Nếu không (tức là nếu TQ có hành vi không được lên kế hoạch kỹ từ trước) thì nó hàm ý một mức độ liều lĩnh táo bạo mà thực sự là đáng sợ, đặc biệt vì môi trường trong khu vực đã quá căng thẳng và vì sự vắng mặt của những cơ chế quản lý khủng hoảng hiệu quả. Nhưng, cách hiểu hào phóng này – mà giả sử VPK là một phần của một kế hoạch lâu dài được thiết kế để đẩy mạnh những quyền lực của TQ – có làm cho chúng ta thoải mái một chút nào không?
Nếu đúng, nó bao hàm một số trong những nhà chiến lược và nhà vạch ra chính sách ở TQ có ảnh hưởng nhất đã bắt tay trên một chiến dịch mà nó sẽ không chỉ mở rộng lãnh thổ, mà là một cách cố ý thử nghiệm sự quyết tâm và chung thủy của (Hoa Kỳ), đối thủ cạnh tranh duy nhất.
Đối với một số nhà quan sát, đặc biệt ở Mỹ, khả năng này sẽ chỉ xác nhận sự mong đợi đã có từ lâu và những lo sợ sâu sắc. Sự gia tăng sức mạnh kinh tế (của TQ), nhiều người tin, chắc chắn sẽ dẫn đến xung đột vì những “thế lực” tăng lên tìm cách thách thức hiện trạng.
Tuy nhiên, cũng có một cách hiểu lịch sử trước đây lạc quan hơn và có vẻ đặc biệt chính đáng. Bất chấp sự căng thẳng hiện nay, rất quan trọng để nhớ đã không có một xung đột nào lớn ở Đông Á từ chiến tranh biên giới ngắn ngủi của TQ và Việt Nam vào những năm 1970s. Chiến tranh giữa các nước ở Đông Á đã không thời trang nữa, cũng như đại đa số trong các khu vực trên thể giới. Sự phát triển kinh tế chưa từng có của vùng Đông Á đã là lý do chính cho niềm vui này. Các nước thực sự có quá nhiều thứ để mất và quá ít cái để đạt được qua xung đột lãnh thổ bành trướng kiểu cũ. (Dù không phải nếu những biên giới là không rõ, tranh chấp, và ở biên đảo)
Câu hỏi lớn nhất đối với TQ là về mức độ của những tác động “thái bình hóa” của sự gia tăng trong mức sống và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Có phải là những lợi ích của thương mại toàn cầu sẽ có ảnh hưởng hơn so với sự mong muốn để điều chỉnh những xúc phạm lịch sử?
Đối với quan hệ của TQ với Nhật Bản, chúng tôi có lý do để lo. Dù có những mức độ phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế thật đáng kể, nhưng quan hệ song phương này đã rõ ràng không hoàn toàn thay đổi. Ngược lại, bất chấp việc cả hai nước có những lý do lớn để làm cho quan hệ kinh tế của họ ổn định, một làn sóng chủ nghĩa dân tộc ở hai quốc gia đang đe dọa nó. Đó là lý do tại sao những chính sách đối ngoại thực nghiệm hóa là rất nguy hiểm.
Không chỉ là những sự kiện gần đây có gây thiệt hại khổng lồ đối với danh tiếng của TQ là một cốt lỗi ngày càng cần thiết của sự phát triển kinh tế vùng, mà có nguy cơ gây ra một xung đột thực tế. Chắc chắn, thậm chí những nhà vạch ra chính sách diều hâu của TQ phải có những dự phòng về điều này. Dù nhỏ, nếu bất kỳ xung đột có xảy ra sẽ có những hậu quả khổng lồ, không thể kiểm soát được, và không thể biết trước được. Thậm chí có một xung đột có thể tình cờ được xử lý nhanh chóng, thì những thiệt hại thứ hai về tài sản sẽ gây ra một nền kinh tế toàn câu đang suy yếu và mờ nhạt sẽ rất lớn. Và TQ cũng sẽ chịu ảnh hưởng xấu tương đuơng như các nước khác.
Nguy cơ lớn, tất nhiên, là những tình cảm chủ nghĩa dân tộc cực đoan đang tăng thêm sự mong muốn để điều chỉnh những xúc phạm lịch sử sẽ vượt qua tầm kiểm soát. Tất cả chúng ta phải hy vọng nếu những chính sách mới của TQ đã là được thiết kế kỹ do những nhà chiến lược của nó họ đã suy ngẫm về khả năng rằng sự “blowback” (gần như là “tự vã vào mặt mình”) cũng có thể có.
Jonathan London

: "Cận cảnh" nguyên nhân Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam sụp đổ
Nhân kỷ niệm 96 năm Cách Mạng Tháng Tám (19/8/1945 – 19/8/2041), bài viết này nhằm cung cấp một cái nhìn cận cảnh về sự sụp đổ của nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
Sự sụp đổ của chính quyền XHCN Việt Nam cuối những năm 10 đầu những năm 20 của thế kỷ XXI là một sự kiện đặc biệt quan trọng của khu vực Đông Nam Á, là một tổn thất hết sức to lớn của những người cộng sản trong quá trình hiện thực hóa học thuyết Mác-Lênin. Sự sụp đổ của chính quyền XHCN Việt Nam vào cuối 2021 đã làm thay đổi căn bản cục diện chính trị khu vực Đông Nam Á cũng như khu vực Châu Á- Thái Bình Dương.
Trong giai đoạn 1945 - 1954, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa nằm trong vòng vây của thực dân Pháp. Trong giai đoạn đặc biệt khó khăn này, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa non trẻ lâm vào thế "ngàn cân treo sợi tóc". Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã vượt qua thách thức hiểm nghèo để tiếp tục phát triển, với kết quả là kết thúc chiến tranh năm 1954 bằng trận Điện Biên Phủ và sau đó là Hiệp định Geneve.
Sau hơn bảy mươi lăm năm tồn tại, phát triển chậm chạp, vào cuối những năm 20 của thế kỷ XXI, Cộng hòa XHCN Việt Nam đã vượt qua 4 cuộc chiến (45 -54, 54 – 75, Biên giới Tây Nam, Biên giới phía bắc), từ một nước thiếu đói thành một trong những nước xuất khẩu hang đầu về gạo và cà phê. Từ một nước với năng lực hải quân hạn chế đã có hạm đội tàu ngầm, tàu chiến, trở thành một thế lực trong khu vực Đông Nam Á. Với sức mạnh to lớn về quân sự và kinh tế, Cộng hòa XHCN Việt Nam đủ sức đương đầu với hệ thống tư bản thế giới và có khả năng ngăn chặn mọi âm mưu, hoạt động hiếu chiến của chủ nghĩa đế quốc của người anh em Trung Quốc để bảo vệ hòa bình khu vực và thế giới.

Cộng hòa XHCN Việt Nam sụp đổ khi đã đạt đến đỉnh cao.
Tại sao?
Đã có hàng trăm, thậm chí hàng nghìn bài viết, công trình chuyên khảo và sách lý giải vấn đề này, trong đó các cuốn sách của những người trong cuộc đưa ra lời giải có sức thuyết phục nhất. Nhân kỷ niệm 96 năm Cách mạng tháng tám (19/8/1945 – 19/8/2041), bài viết này nhằm cung cấp một cái nhìn cận cảnh về sự sụp đổ của Cộng hòa XHCN Việt Nam.
1. Chính quyền XHCN Việt Nam đã có đóng góp hết sức to lớn vào sự phát triển của khu vực và thế giới. Trong nửa sau của thế kỷ XX, trên thế giới có hơn một chục Đảng Cộng Sản cầm quyền, hình thành một hệ thống XHCN hùng mạnh đủ sức kiềm chế mọi hành động đơn phương, hiếu chiến chống phá cách mạng của chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là Mỹ.
Chính nhờ sự tồn tại của hệ thống XHCN hùng mạnh, hàng trăm dân tộc bị nô dịch, áp bức đã vùng lên làm cách mạng giải phóng dân tộc, làm suy sụp chủ nghĩa thực dân cũ, làm thất bại chủ nghĩa thực dân mới. Xét đến cùng, sự hình thành và phát triển của phong trào không liên kết là thành quả của cuộc đấu tranh vô sản - tư sản trên phạm vi toàn cầu, là thành tựu to lớn của các Đảng Cộng sản cầm quyền trong thế kỷ XX. Nói cách khác, chính những người cộng sản, trước hết là các Đảng Cộng sản cầm quyền ở các nước thuộc hệ thống XHCN, đã ghi tạc một mốc son chói lọi vào tiến trình phát triển văn minh nhân loại.
Các Đảng Cộng sản cầm quyền đã xây dựng được một hệ thống xã hội hùng mạnh (hệ thống XHCN), trên nhiều lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội tốt đẹp hơn, ưu việt hơn chủ nghĩa tư bản (CNTB). Cho đến nay, sau 20 năm Cộng hòa XHCN Việt Nam sụp đổ, vẫn có 9% người Việt được hỏi ý kiến cho rằng ở chủ nghĩa xã hội nhiều điều tích cực hơn là tiêu cực.
Thật trớ trêu, chính các Đảng Cộng Sản cầm quyền, trước hết và chủ yếu là Đảng Cộng sản Việt Nam, lại để mất quyền lãnh đạo, Cần lưu ý rằng Đảng Cộng sản Việt Nam mất quyền lãnh đạo, Nhà nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam sụp đổ mà không thông qua một cuộc chiến tranh với chủ nghĩa đế quốc.
Thực chất, Đảng Cộng sản Việt Nam, trực tiếp và chủ yếu là Bộ Chính trị, BCH Trung Ương đã tha hóa, đã tự đánh mất mình và làm cho Cộng hòa XHCN Việt Nam sụp đổ. Chính những người lãnh đạo cao nhất, các ủy viên Bộ Chính trị Đảng CSVN đã thừa nhận điều đó. Tất nhiên, hoạt động chống phá của các thế lực chống cộng quốc tế thông qua chiến lược "diễn biến hòa bình" cũng là một nguyên nhân làm cho Cộng hòa XHCN Việt Nam sụp đổ, nhưng chắc chắn không phải là nguyên nhân chính, không phải là nguyên nhân chủ yếu.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam đã tha hóa, biến chất như thế nào? Sơ bộ có thể nêu ra một số biểu hiện lớn sau đây:
- Một là, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng. Đi liền với nó là các bệnh tật: độc đoán, chuyên quyền, không chấp nhận những ý kiến khác với mình; coi thường tập thể, coi thường cấp dưới, tự cho mọi ý kiến của mình là chân lý buộc mọi người phải tuân theo, coi những ai có ý kiến ngược lại là chống đối, thậm chí là thù địch, khi cần thiết bảo vệ "cái uy" của mình, họ sẵn sàng đối xử với đồng chí, đồng đội như đối với kẻ thù. Kết quả là trong sinh hoạt, đảng mất hết sinh khí, mất hết tính chiến đấu. Sinh hoạt đảng trở nên tẻ nhạt, khô cứng, độc thoại một chiều. Trong điều kiện đó nhiều đảng viên trung kiên, trong sáng không được trọng dụng, cố nín nhịn để tồn tại, những kẻ cơ hội, nịnh bợ có điều kiện được thăng tiến.
- Hai là, Bộ Chính trị, BCH Trung Ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã quan liêu xa rời thực tiễn, để mất quan hệ máu thịt giữa Đảng CSVN với nhân dân Việt Nam. Tệ quan liêu làm cho những người lãnh đạo các cấp của Đảng CSVN xa rời thực tế, không có hiểu biết đúng đắn hiện trạng xã hội mà mình đang lãnh đạo, quản lý. Họ thờ ơ trước những nguyện vọng chính đáng của quần chúng, thậm chí không có rung động, phản ứng trước những nỗi thống khổ, oan ức của một bộ phận quần chúng nhân dân, trong đó có cả một bộ phận đảng viên, cán bộ cấp dưới.
- Ba là, những suy thoái về đạo đức, lối sống của một số lãnh đạo cấp cao giữ vai trò chủ chốt với những biểu hiện nổi bật: Sống ích kỷ, đặt lợi ích của bản thân, gia đình và người thân lên trên lợi ích của Đảng, của nhân dân; cục bộ địa phương, kéo bè kéo cánh đưa những người thân tín với mình, kể cả những người yếu về năng lực, kém về đạo đức, lối sống vào những vị trí lãnh đạo để làm vây cánh, che chắn bảo vệ mình; tham ô, sống xa hoa, nói một đằng làm một nẻo, cá biệt còn tha hoá, suy đồi về đạo đức, lối sống.

giang-seo-phu.jpg


Một khuôn mặt đại diện của lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước thời đó
Trên đây là những biểu hiện nổi bật chủ yếu sự thoái hoá của một bộ phận cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhất là các cán bộ chủ chốt ở cấp cao.
Chỉ khi nào sự thoái hóa, biến chất diễn ra tại trung tâm quyền lực (chóp bu) của Đảng thì mới trở thành nguy cơ đối với Đảng, đó là đêm trước của sự tan rã, sụp đổ. Đảng Cộng sản Việt Nam và các "phiên bản" Đông Âu của nó thuộc trường hợp này.
Thông thường các biểu hiện trên không tồn tại biệt lập, mà luôn song hành, có quan hệ với nhau, tác động với nhau, có lúc cái này làm tiền đề, điều kiện cho cái kia tồn tại và phát triển. Những biểu hiện thoái hoá nói trên, không bỗng nhiên xuất hiện, mà có một quá trình từ chớm nở như một ung nhọt nhỏ rồi phát triển qua nhiều giai đoạn. Những bệnh tật này lặng lẽ tích dồn liên tục trong nhiều tháng, nhiều năm làm Đảng mất sức chiến đấu, thiếu nhạy bén, không đưa ra được đường lối, quyết sách đúng đắn, khả thi. Trong Đảng CSVN đã thực sự có phân hoá: Một bộ phận cán bộ, đảng viên giàu lên nhanh chóng do đặc quyền, đặc lợi, đại bộ phận sống khó khăn; nhiều đảng viên nói một đằng làm một nẻo, trong cuộc họp nói khác ngoài cuộc họp, suy nghĩ một đằng phát biểu một nẻo. Tính chiến đấu trong sinh hoạt đảng dần dần nguội lạnh, nhiều đảng viên trở nên thờ ơ trước những vấn đề chính trị có quan hệ đến vận mệnh của Đảng CSVN.
Theo Nguyễn Phú Trọng, có thể chia 3,6 triệu đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam làm 4 loại: 1, Những đảng viên chân chính thường chiếm tỷ lệ nhỏ, 2. Những người thực hiện, chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng như cái máy (chiếm khoảng hơn 96 %); 3. Những kẻ cơ hội, xu thời, nịnh bợ (phần lớn trong bộ máy công quyền); 4. Những người im lặng (phần lớn họ là những người có hiểu biết nhưng sợ bị trù dập nên họ giữ im lặng, không dám phát biểu).
Trần Xuân Bách, nguyên ủy viên Bộ Chính trị ĐCS ViệtNam, Bí thư trung ương Đảng (1986 - 1990) cho rằng: Tồn tại hai Đảng trong Đảng Cộng sản Việt Nam: Một đảng của hàng chục triệu đảng viên bình thường và một đảng của những quan chức chóp bu trong hệ thống đảng, nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Những đảng viên nắm quyền lực ở cấp cao ngày càng xa rời, cách biệt với hàng chục triệu đảng viên bình thường. Số đảng viên này, về thực chất, không đại diện và bảo vệ lợi ích của giai cấp, của dân tộc, mà chỉ tìm mọi cách bám giữ quyền lực vì lợi ích cá nhân của họ.
Do những bệnh tật kể trên, đại bộ phận quần chúng nhân dân giảm lòng tin đối với sự lãnh đạo của Đảng CSVN, thờ ơ đối với những vấn đề chính trị trọng đại của đất nước, thậm chí có một số trông chờ, mong muốn có sự thay đổi. Chính đó là trạng thái trong Đảng Cộng sản Việt Nam và trong xã hội Việt Nam vào cuối những năm 10, đầu những năm 20 của thế kỷ XXI, đêm trước của sự sụp đổ, tan rã (2019 - 2021).
3. Thử bàn về các nguyên nhân Về hoạt động chống phá của Mỹ và các thế lực chống cộng quốc tế thì rõ ràng, có đầy đủ thông tin, tư liệu để khẳng định. Tuyệt đối không được mơ hồ, mất cảnh giác.
Mặt trái của cơ chế thị trường cũng là một nguyên nhân. Nhưng nếu quá nhấn mạnh, cường điệu mặt trái của cơ chế thị trường thì khó lòng giải thích được những thoái hoá của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Cộng sản Trung Quốc trong thời kỳ Mao Trạch Đông, Trường Trinh, Lê Duẩn lãnh đạo, vì thời Mao, thời Trường Trinh, thời Lê Duẩn chưa có kinh tế thị trường.
Nghiên cứu kỹ quá trình thoái hoá của Đảng Cộng sản Việt Nam, kể cả những đảng cầm quyền rồi mất quyền và những đảng hiện nay còn cầm quyền, chúng tôi xin nêu ra hai vấn đề để trao đổi, thảo luận.
- Một là, về mặt tổ chức, trong suốt quá trình tồn tại, phát triển của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam chưa xây dựng được cơ chế hữu hiệu để đảm bảo dân chủ thực sự trong sinh hoạt Đảng. Đảng CSVN đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong suốt quá trình hoạt động. Theo chúng tôi, đây là điểm khởi thuỷ, nguồn gốc của mọi biểu hiện khác về sự thoái hoá của Đảng CSVN (quan liêu, tha hoá về tư tưởng chính trị, thoái hoá về đạo đức, lối sống, chia rẽ mất đoàn kết...). Ở đâu và khi nào trong sinh hoạt đảng thể hiện sục sôi dân chủ, thì đảng có sức sống mãnh liệt. Đảng Cộng sản Việt Nam dưới thời lãnh đạo của Hồ Chí Minh là một ví dụ điển hình.
Xét đến cùng, do thiếu dân chủ trong sinh hoạt Đảng nên cơ quan lãnh đạo của Đảng CSVN thiếu thông tin nhiều mặt về một vấn đề, đặc biệt là những vấn đề hệ trọng quan hệ đến sinh tồn của Đảng. Thiếu dân chủ cho nên trong sinh hoạt đảng thường là độc thoại một chiều từ những người lãnh đạo cao nhất, thiếu hẳn thông tin phản hồi từ dưới lên. Thiếu dân chủ, nên những đảng viên ưu tú, nhạy bén, sắc sảo, thông minh không có chỗ để thể hiện ý tưởng của mình. Trong một tổ chức như vậy, bộ tham mưu cao nhất không có đủ thông tin nhiều chiều, toàn diện, do đó những quyết định về đường lối, sách lược thường không phù hợp với thực tiễn, thậm chí trái ngược với quy luật, ngược với hiện thực khách quan. Phải chăng, đó là một trong những nguyên nhân căn bản dẫn đến tình trạng nghị quyết, chỉ thị rất nhiều nhưng việc đưa vào cuộc sống không được bao nhiêu. Theo ngôn ngữ y học, thuốc rất nhiều nhưng không có loại đặc trị, nên bệnh tình sẽ ngày càng trầm trọng.
Dưới góc độ lý thuyết hệ thống, có thể xem một tổ chức đảng như một hệ thống. Để đảm bảo cho hệ thống đó tồn tại bền vững, nhất thiết phải có trao đổi thông tin. Nếu thiếu trao đổi thông tin (theo 2 chiều thuận - nghịch, từ trong ra ngoài, từ ngoài vào trong) thì sớm muộn hệ thống đó sẽ bị đổ vỡ để chuyển sang một trạng thái khác. Thiếu dân chủ trong sinh hoạt đảng, tức là thiếu trao đổi thông tin (trên xuống, dưới lên, trong đảng ra ngoài xã hội và ngược lại). Nếu trạng thái này kéo dài thì sẽ sinh ra thoái hóa của hệ thống đảng dưới nhiều biểu hiện như đã trình bày ở trên. Nếu không khắc phục được, để kéo dài, thì sớm muộn sự thoái hóa của một số đảng viên ở vị trí chủ chốt sẽ dẫn đến sự thoái hóa của đảng cầm quyền.
Hãy trở lại với Đảng Cộng sản Việt Nam để chúng ta hiểu rõ vấn đề dân chủ trong đảng. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng được ghi rõ trong Điều lệ, Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, qua nhiều lần thay đổi, vẫn là một văn bản quy định rất chặt chẽ, rõ ràng quyền hạn và trách nhiệm của đảng viên. Tại sao không ngăn chặn được những biến thái lệch lạc của Nguyễn Phú Trọng, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Sinh Hùng, không ngăn chặn được hành vi lạm quyền, lộng quyền và phản bội của Nguyễn Tấn Dũng, Vũ Đức Đam? Cớ sao hàng triệu đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam không có phản ứng gì khi Vũ Đức Đam tuyên bố giải tán Đảng? Không thể nói cách khác, thiếu dân chủ trong sinh hoạt Đảng và không có cơ chế giám sát quyền lực hữu hiệu, đặc biệt là thiếu hẳn cơ chế giám sát hoạt động của Tổng bí thư, của Bộ Chính trị là nguồn gốc sinh ra tệ lạm quyền, lộng quyền của những người lãnh đạo Đảng CSVN, làm cho đảng có một xác thịt to lớn (hàng chục triệu đảng viên), nhưng không có hồn, không có sức sống.
Thực tế xác nhận: Đảng CSVN trước đây không có lực lượng nào và không có cơ chế nào thực hiện giám sát và phản biện hoạt động của Tổng Bí thư, của Bộ Chính trị. Một nhóm nhỏ này, có khi chỉ dăm ba người nắm quyền lực tối cao, tự tung tự tác, ai có ý kiến khác sẽ bị họ chụp cho cái mũ là "chống đối", "là phản động", "là chống Đảng", thậm chí là "phản bội Tổ quốc"...
Cũng do thiếu dân chủ trong sinh hoạt Đảng mà các thành viên trong tổ chức có quan hệ với nhau rất lỏng lẻo, đảng mất hết sức sống, tính chiến đấu chỉ còn lại trong nghị quyết.
Do thiếu dân chủ trong sinh hoạt Đảng, mà một thời gian dài trước khi sụp đổ, tan rã, trong Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như trong các Đảng Cộng sản ở các nước XHCN ở Đông Âu đã lặng lẽ diễn ra một quá trình phân hóa trong đảng, cả trong sinh hoạt Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị. Các đảng viên nghĩ một đằng phát biểu một đằng, không dám thể hiện chính kiến của mình ngay cả đối với vấn đề quan hệ đến sinh tồn của Đảng. Trong cuộc họp người ta nói một đằng, mà phần lớn không thật lòng, ngoài cuộc họp người ta nói riêng với nhau lại khác, cấp trên áp đặt, cấp dưới điều chỉnh hành vi cho phù hợp với cấp trên, mọi thông tin chính thức từ trên xuống và đặc biệt là từ dưới lên đều thiếu chân thật. Chưa đến một tháng trước khi tan rã, mất quyền lãnh đạo, những người lãnh đạo của một Đảng Cộng sản cầm quyền vẫn khẳng định sức chiến đấu của đảng mình, vẫn tuyên bố tuyệt đại bộ phận nhân dân còn ơn đảng, theo đảng, tin đảng và tuyệt đại đa số đảng viên là tin cậy, trung thành...!
Cũng do thiếu dân chủ trong sinh hoạt Đảng mà Đảng CSVN đã mắc sai lầm trong việc đánh giá cán bộ, đào tạo cán bộ, tuyển chọn và bố trí, sử dụng cán bộ vào vị trí chủ chốt trong Đảng, trong Nhà nước. Thiếu dân chủ là bà đỡ của thói nịnh bợ, luồn lọt, là điều kiện tốt cho chủ nghĩa thực dụng, cơ hội vị kỷ phát sinh tồn tại trong đảng, nhất là ở các cơ quan lãnh đạo cấp cao. Ai cũng biết cán bộ quyết định tất cả, và thực tiễn cũng xác nhận điều đó. Nhưng Đảng CSVN phạm sai lầm trong công tác sử dụng, bố trí cán bộ.
- Hai là, sự thoái hóa của Đảng CSVN là do các đảng viên, trước hết và chủ yếu là các đảng viên trước hết giữ vị trí lãnh đạo chủ chốt ở cấp cao, chưa đủ độ chín muồi về mặt chính trị, chưa thực sự giác ngộ về giai cấp, về lý tưởng cộng sản. Khi kết nạp mọi đảng viên đều tuyên thệ về sự giác ngộ lý tưởng cộng sản của mình, hứa hẹn một lòng một dạ phấn đấu vì lợi ích của giai cấp, của những người lao động, nguyện trung thành với lý tưởng cộng sản... Nhưng khi đã vào đảng rồi thì họ thiếu rèn luyện và trong hoạt động thực tiễn, họ dần dần xa rời những lời tuyên thệ, hứa hẹn của mình. Đó là quá trình tha hóa của đảng viên, và kéo theo sự tha hóa của đảng. Tất nhiên, không phải mọi đảng viên đều diễn ra quá trình tha hóa đó.
Tất nhiên, còn nhiều vấn đề thuộc về nguyên nhân và điều kiện làm cho Đảng CSVN thoái hóa, nước Cộng hòa XHCN Việt Nam sụp đổ. Ở đây chúng tôi không có điều kiện để trình bày tất cả, chỉ nêu ra những nhân tố quan trọng nhất, cơ bản nhất. Có thể xem nó là nguồn gốc của mọi thoái hóa của Đảng cầm quyền nói chung, của Đảng CSVN nói riêng.

* * *
Năm 2041, nhân dân Việt Nam nói riêng và nhân loại tiến bộ nói chung, kỷ niệm 96 năm Cách mạng tháng tám (19/8/1945 – 19/8/2041). Chủ nghĩa xã hội đã tồn tại 76 năm tại nước Việt Nam (1945 - 2021) và Cộng hòa XHCN Việt Nam sụp đổ đã 20 năm (2021 - 2041). Người Việt Nam nói riêng, nhân loại tiến bộ nói chung, còn phải tiếp tục nghiên cứu lý giải một cách cặn kẽ và có sức thuyết phục về những vấn đề liên quan đến sự sụp đổ của Cộng hòa XHCN Việt Nam.
Sau chừng ấy thời gian, cho phép chúng ta khái quát ba vấn đề lớn sau:

- Một là, từ Cách mạng tháng tám đến khi sụp đổ của Cộng hòa XHCN Việt Nam (1945 - 2021) có thể phân kỳ như sau: 1. Thế hệ cách mạng đầu tiên do Hồ Chí Minh lãnh đạo đã đưa nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ vượt qua thử thách "ngàn cân treo sợi tóc" 1945 - 1954 để tồn tại và phát triển; 2. Thế hệ lãnh đạo thứ hai do Lê Duẩn lãnh đạo đã đánh đuổi đế quốc Mỹ và thống nhất đất nước; 3; Thế hệ lãnh đạo thứ ba ở Việt Nam từ Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt, Lê Khả Phiêu là những người đã tham gia chiến tranh chống Mỹ và họ đã đưa Việt Nam từ một nước thiếu đói trở thành nước xuất khẩu gạo và cà phê hàng đầu; 4. Thế hệ lãnh đạo thứ tư với hạt nhân là Nguyễn Tấn Dũng, Vũ Đức Đam, là những người sinh ra trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ và ít nếm trải thử thách của chiến tranh.
Chính thế hệ lãnh đạo thứ tư đã làm cho Đảng CSVN mất quyền lãnh đạo, làm cho Cộng hòa XHCN Việt Nam sụp đổ.
- Hai là, thế hệ lãnh đạo thứ tư ở Việt Nam với Nguyễn Tấn Dũng, Vũ Đức Đam là hạt nhân đã nắm trong tay mọi quyền lực và mọi nguồn lực của đất nước, nhưng họ không thuận theo lòng dân, không được dân ủng hộ nên đánh mất toàn bộ cơ đồ sự nghiệp và bị lịch sử vứt vào sọt rác.
Hóa ra, việc thâu tóm được mọi quyền lực và mọi nguồn lực quốc gia không khó bằng nắm được lòng dân. Những ai không nắm được lòng dân thì họ đã thất bại ngay khi đang nắm quyền lực.
- Ba là, các đảng cộng sản đang cầm quyền và chưa cầm quyền cần rút ra bài học từ thất bại của Đảng CSLX, từ sự tan rã của Liên Xô để vượt qua chính mình vì hạnh phúc của nhân dân và sự hưng thịnh của đất nước.
Sai lầm và khuyết điểm rất khó tránh, nhưng không thực sự nguy hiểm. Điều nguy hiểm nhất là không dám thừa nhận sai lầm, khuyết điểm, đặc biệt là không có quyết tâm chính trị để tránh sai lầm, khắc phục khuyết điểm.
Thiếu tướng Lâm Văn Cương (Nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu chiến lược Bộ Quốc Phòng)
Dân Luận

0 nhận xét:

Đăng nhận xét