Thứ Ba, 24 tháng 12, 2013

Vài trận đánh độc đáo nhất lịch sử Việt

Cuộc tấn công thần tốc nhất lịch sử Việt:
(VTC News) - “Đánh cho để dài tóc/ Đánh cho để đen răng/ Đánh cho chúng chích luân bất phản/ Đánh cho chúng phiến giáp bất hoàn/ Đánh cho sử tri Nam Quốc anh hùng chi hữu chủ” (Quang Trung- Lời hiểu dụ tướng sỹ đọc tại lễ Thệ sư tổ chức ở Thọ Hạc - Thanh Hóa năm 1788).
Quân Tây Sơn đã lật đổ các tập đoàn phong kiến là chúa Nguyễn và chúa Trịnh. Năm 1787 vua Lê Hiển Tôn băng hà, hoàng tôn là Lê Duy Kỳ lên nối ngôi, đặt niên hiệu là Chiêu Thống.
Khi thấy Nguyễn Hữu Chỉnh ở Bắc Hà có ý làm phản, Bắc bình vương Nguyễn Huệ đã sai Vũ Văn Nhậm đem quân ra Bắc bắt được Nguyễn Hữu Chỉnh, đem đi giết. Vũ Văn Nhậm sau khi bắt được Nguyễn Hữu Chỉnh, có ý kiêu căng, ngấm ngầm chống lại quân Tây Sơn. Được Ngô Văn Sở cấp báo, Nguyễn Huệ đem quân ngày, đêm ra Thăng Long sai bắt Vũ Văn Nhậm giết đi.
Cuộc tấn công thần tốc nhất lịch sử Việt
Vua Quang Trung và công chúa Ngọc Hân 
Sau khi xếp đặt quan quân, chỉnh đốn mọi việc, Bắc bình vương trở về Huế, giao quyền cho Ngô Văn Sở, Ngô Thì Nhậm cùng đô đốc Tuyết trấn giữ Bắc Hà. Sau khi Nguyễn Hữu Chỉnh bị quân Tây Sơn giết, vua Lê Chiêu Thống không dám ở kinh thành, bỏ trốn vì sợ quân Tây Sơn. Tháng 7/1788, mẹ của Lê Chiêu Thống từ Cao Bằng được sự giúp đỡ của Hoàng Ích Hiểu, Lê Quýnh, Nguyễn Quốc Đốc đã đem con trai của Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc cầu cứu nhà Thanh. Vốn có dã tâm nhòm ngó nước ta từ lâu, nay lại được bọn vua tôi bán nước Lê Chiêu Thống cầu cứu, vua Càn Long liền lệnh cho tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sỹ Nghị nhanh chóng chuẩn bị lực lượng để xâm lược An Nam với chiêu bài: “Phù Lê diệt Tây Sơn”.
Vua Càn Long đã huy động 20 vạn quân và 10 vạn phu đi phục dịch của 4 tỉnh: Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu, đặt dưới quyền chỉ huy của Tôn Sỹ Nghị. Nhà Thanh cho chuẩn bị 70 kho lương ở các địa điểm xuất phát và triển khai rải dài số lương thực ở các kho trên theo trục đường tiến quân. Cuối năm 1788, Càn Long hạ chiếu phong cho Tôn Sỹ Nghị làm Chinh Man Đại tướng quân, tổng đốc Vân - Quý là Phúc Khang An chịu trách nhiệm huy động và vận tải lương thực cho đạo quân xâm lược khổng lồ này. Tôn Sỹ Nghị chia quân làm 3 đạo tiến vào nước ta qua ba mũi khác nhau.
Đạo thứ nhất do Ô Đại Kinh (đề đốc 2 tỉnh Vân Nam - Quý Châu) chỉ huy, từ Vân Nam qua cửa Mã Bạch Quan (Hà Giang) rồi tràn xuống Hà Giang, băng qua Thái Nguyên về Hà Bắc và tiến xuống Thăng Long.
Đạo thứ 2 do Sầm Nghi Đống chỉ huy tiến vào nước ta qua đường Cao Bằng. Đạo này, ngoài quân nhà Thanh còn có lực lượng ủng hộ Lê Chiêu Thống, đang lưu vong ở Trung Quốc mới được Sầm Nghi Đống tuyển mộ.
Đạo thứ 3 là đạo quân chủ lực do đích thân Tôn Sỹ Nghị cầm đầu, dưới trướng của y là các tướng: đề đốc Đỗ Thế Hanh giữ chức phó tướng, tổng binh Thượng Duy Thăng, tổng binh Khánh Thành chỉ huy các đơn vị bộ binh huy động từ tỉnh Quảng Tây. Tổng binh Trương Triều Long và Lý Bá Long chỉ huy các đơn vị bộ binh huy động từ tỉnh Quảng Đông. Đạo quân do Tôn Sỹ Nghị chỉ huy tiến vào nước ta theo đường ải Nam Quan (Lạng Sơn). Đồng thời chúng còn xúi giục nhân dân ta nổi lên chống lại Tây Sơn và động viên bọn quan lại cũ của nhà Lê mộ quân “Cần Vương”, hưởng ứng và hợp lực với quân Thanh chống quân Tây Sơn.
Cuộc tấn công thần tốc nhất lịch sử Việt
Tượng vua Quang Trung 
Ngày 28/10 năm Mậu Thân (25/11/1788), cả ba đạo quân đều nhất loạt nhằm vào biên giới nước ta mà tiến. Chiêu bài hành quân của quân Thanh là: “Phù Lê diệt Tây Sơn”. Chỉ dụ của Càn Long gửi cho Tôn Sỹ Nghị trước lúc xuất quân đã bộc lộ rõ mưu đồ của nhà Thanh đối với nước ta lúc đó: “Trước hãy truyền hịch để gây thanh thế, sau đó thì để bọn cựu thần nhà Lê về nước tìm tự quân (Lê Chiêu Thống) của nhà Lê, khiến chúng ra đối địch với Tây Sơn. Giả sử (Nguyễn) Huệ mà bỏ chạy thì cho tự quân nhà Lê đuổi theo, ta chỉ nên đi tiếp ứng mà thôi. Đó là thượng sách vì không khó nhọc mà vẫn thành công. Người trong nước họ, nếu một nửa theo (Nguyễn) Huệ mà (Nguyễn) Huệ không chịu rút quân, thì phải nhờ thủy binh ở Mân Quảng (Phúc Kiến và Quảng Đông) vượt biển đánh vào Thuận Quảng, rồi từ đó đánh ra, kế đến bộ binh mới tiến. Hai mặt trước, sau đều bị đánh thì tất nhiên (Nguyễn) Huệ phải chịu quy phục. Ta sẽ nhân đó mà ràng buộc cả hai. Từ Thuận Quảng vào Nam thì cấp cho Nguyễn Huệ, từ Hoan Ái (Hà Tĩnh – Thanh Hóa) thì cấp cho nhà Lê, còn ta đóng đại binh ở giữa để kiềm chế cả hai, sau sẽ có cách xử trí khác”. (Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, Q.30).
Trước khi lên đường, Tôn Sỹ Nghị ban bố cho toàn quân Thanh 8 điều quân luật, trong đó có những điều nói rất rõ về cách đề phòng voi chiến và súng hỏa hổ (ống phun lửa) của quân Tây Sơn. Với đạo quân hùng mạnh, được chuẩn bị chu đáo và có quyết tâm cao trong việc tiêu diệt đạo quân Tây Sơn, nhằm đặt quyền thống trị của nhà Thanh lên đất nước ta, triều đình Mãn Thanh tin tưởng vào khả năng chiến thắng của chúng trước nước Nam bé nhỏ. Một lần nữa nền độc lập dân tộc của đất nước lại bị đe dọa nghiêm trọng trước sức mạnh tưởng như không có gì ngăn cản được của quân xâm lược nhà Thanh.
Tình hình nước ta lúc đó, chính quyền cả nước đã vào tay anh em Tây Sơn. Quân đội Tây Sơn là con đẻ của phong trào nông dân, được quần chúng nhân dân ủng hộ, trải qua chiến tranh đã trưởng thành và có tinh thần chiến đấu rất cao, kỷ luật nghiêm. Trình độ kỹ chiến thuật đánh địch tương đối hoàn hảo. Đặc biệt là đã có những cải tiến về pháo binh và hạm thuyền, cùng lối đánh công thành táo bạo, dũng cảm và chiến lược chiến thuật sắc sảo, thần tốc trong hành binh, thần tốc trong chiến đấu.
Tướng lĩnh gồm nhiều người có tài thao lược, đặc biệt nổi bật là Bắc bình vương Nguyễn Huệ, một thiên tài quân sự, xuất thân từ áo vải cờ đào. Tuy nhiên lúc đó quân Tây Sơn cũng gặp không ít khó khăn. Ở Nam bộ Nguyễn Ánh đang mưu đồ chiếm lại Gia Định. Ngoài Bắc thì một số quan lại nhà Lê xúi giục nhân dân, chiêu mộ quân “Cần Vương” nổi dậy, biên ải thì quân Thanh đang rầm rồ kéo vào uy hiếp nền độc lập dân tộc.
Khi hơn 20 vạn quân Thanh kéo sang, lúc này ở miền Bắc quân ta chỉ có 1 vạn người do Ngô Văn Sở và Ngô Thời (Thì) Nhậm chỉ huy. Với kế sách do Ngô Thì Nhậm vạch ra: “Tướng giỏi đời xưa, lường thế giặc rồi mới đánh, nắm phần thắng rồi mới hành động, tùy theo tình thế mà bày ra chước lạ... Nay ta hãy bảo toàn quân lực và rút lui, không bỏ mất một mũi tên. Cho chúng ngủ trọ một đêm, rồi lại đuổi đi, cũng như ngọc bích của nước Tần thời xưa vẫn nguyên lành”. Tướng Ngô Văn Sở đồng ý với kế sách của Ngô Thì Nhậm. Ngày 17/2/1788 quân ta đã rút toàn bộ quân thủy bộ về đóng ở Biện Sơn và Tam Điệp.
Cũng cùng ngày đó quân Thanh lục đục kéo vào thành Thăng Long. Tuy vào thành nhưng vì sợ quân Tây Sơn tấn công nên chúng đã chia quân ra đóng ở nhiều điểm để hỗ trợ nhau khi tác chiến. Đạo quân Lưỡng Quản đóng tại những khu bãi rộng hai bên bờ sông Hồng, bắc cầu phao qua sông. Quân của Sầm Nghi Đống đóng tại gò Đống Đa (Khương Thượng). Đại bản doanh của Tôn Sỹ Nghị đóng ở cung Tây Long, quân “Cần Vương” của Lê Chiêu Thống đóng ở nội thành. Đạo quân Vân Nam đồn trú tại Sơn Tây. Chúng tiến vào chiếm thành Thăng Long một cách dễ dàng, không mất một mũi tên, một tên lính nên Tôn Sỹ Nghị trở nên kiêu căng, chủ quan, cho quân dừng lại nghỉ ngơi, không tổ chức truy kích quân Tây Sơn. Hắn đã bỏ lỡ thời cơ mà sau này hối lại thì đã muộn rồi. Quân lính nhà Thanh thả sức cướp bóc nhà dân: “Tìm cách vu hãm người lương thiện, áp bức nhà giàu có, thậm chí là giữa đường, giữa chợ cũng hãm hiếp đàn bà, cướp bóc của cải, không còn biết kiêng sợ gì cả” (Ngô Gia Văn Phái – Hoàng Lê nhất thống chí - Hồi 13). Vì thế lòng người dân Bắc Hà đều ngóng đợi Bắc bình vương Nguyễn Huệ ra Bắc đánh đuổi quân xâm lược, giành lại giang sơn đất nước.
Vua Quang Trung đại phá Quân Thanh - Tôn Sỹ Nghị bỏ thành chạy trốn.
Ngày 21/12/1788, Bắc bình vương Nguyễn Huệ nhận được tin cấp báo của Ngô Văn Sở do đô đốc Nguyễn Văn Tuyết chuyển về. Được biết quân Thanh dương cao lá cờ giả hiệu: “Phù Lê diệt Tây Sơn”, ngày 25/11 năm Mậu Thân (22/12/1788), tại Núi Bân (Phú Xuân) Nguyễn Huệ đã lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung.
Trong tờ chiếu lên ngôi, Nguyễn Huệ đã nêu rất rõ: “Trẫm đã hai lần gây dựng cho họ Lê, thế mà tự quân (vua Chiêu Thống) không biết giữ xã tắc, bỏ nước bôn tẩu ở ngoài, sỹ dân Bắc hà không hướng về họ Lê mà chỉ trông mong vào trẫm” (Quang Trung tức vị chiếu). Đây là lời khẳng định của Vua Quang Trung trước sứ mệnh lịch sử của dân tộc đang đè nặng lên hai vai của vị vua anh minh, tài năng thao lược, nặng lòng vì nước vì dân.
Ngày 26/12/1788 đoàn quân của vua Quang Trung đã tới Nghệ An. Tại đây nhà vua đã mộ thêm quân, cả quân mới và cũ lên tới 10 vạn người và đội tượng binh với hàng trăm voi chiến.
Sau khi biên chế đội ngũ, vua Quang Trung tổ chức duyệt binh, động viên tướng sỹ và tuyên bố trước ba quân: “Quân Thanh sang xâm lược nước ta, hiện đang ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao nấy, tất cả đều được phân biệt rõ ràng, Bắc Nam hai phương chia nhau cai trị, người phương Bắc không phải nòi giống ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời Hán đến nay, chúng đã bao phen cướp bóc nước ta, cho nên người mình không ai chịu nổi, đều muốn đánh đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng nữ vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ... các ngài không nỡ ngồi yên nhìn chúng làm điều tàn bạo, cho nên đã thuận theo lòng người mà dấy nghĩa binh, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về hẳn bên phương Bắc”.... “Lợi hại và được thua đều là chuyện cũ rành rành của các triều đại trước. Nay người Thanh lại sang mưu đồ lấy nước Nam ta mà đặt thành quận huyện của chúng, không biết trông gương các đời Tống, Nguyên, Minh thuở xưa, vì thế ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng...” (Ngô Gia Văn Phái – Hoàng Lê nhất thống chí - Hồi thứ 14).
Để làm cho Tôn Sỹ Nghị càng chủ quan khinh địch hơn (sau khi đã dễ dàng vào được thành Thăng Long), vua Quang Trung đã “sai người ruổi ngựa chạy gấp ra đưa thư xin đầu hàng Tôn Sỹ Nghị, lời lẽ trong thư rất nhún nhường, khiêm tốn”... (Khâm địch Việt sử thông dám cương mục chính biên, Q.47, T.40). Hành quân ra đến Thọ Hạc (Thanh Hóa), vua Quang Trung long trọng tổ chức lễ Thệ sư, người tuyên bố “bớ chư quân, phàm ai bằng lòng chiến đấu thì hãy vì ta giết sạch quân giặc. Nếu ai không muốn thì hãy xem ta giết vài vạn tên trong một trận, đó không phải là chuyện hiếm lạ đâu” (Theo sách: “Lê Quý kỷ sự” – Tác giả: Nguyễn Thu). Cũng trong đại lễ vua Quang Trung đanh thép khẳng định quyết tâm của nhà vua và ba quân tướng sỹ là: “Đánh cho để dài tóc/ Đánh cho để đen răng/ Đánh cho chúng chích luân bất phản/ Đánh cho chúng phiến giáp bất hoàn/ Đánh cho sử tri Nam Quốc anh hùng chi hữu chủ”.
Sách: “Lê Quý kỷ sự” của Nguyễn Thu viết: “Nguyễn Huệ vừa dứt lời, chư quân dạ ran như sấm, rung động cả hang núi, trời đất như muốn đổi màu, thế rồi chiêng trống khua vang, quân sỹ tiến gấp ra bắc” (SĐD).
Ngày 20 tháng Chạp năm Mậu Thìn (15/1/1789) vua Quang Trung cùng đại quân ra tới Tam Điệp và Biện Sơn (Ninh Bình). Tại đây người đã đưa ra các quyết sách quan trọng về chiến lược, chiến thuật tấn công quân Mãn Thanh. Quân ta chia ra làm 5 đạo để tấn công giặc xâm lược ở 5 hướng khác nhau.
Đạo quân thứ nhất do vua Quang Trung trực tiếp chỉ huy, gồm đầy đủ cả bộ binh, tượng binh và kỵ binh. Đạo quân này sẽ đánh thẳng vào phía Nam kinh thành Thăng Long, nơi tập trung lực lượng chủ lực của quân Thanh.
Đạo quân thứ hai gồm: Kỵ binh, tượng binh dưới quyền chỉ huy của đô đốc Bảo theo đường Sơn Minh (huyện Hưng Hóa) qua Đại Áng đánh vào phía Tây Nam đồn Ngọc Hồi, đây là vị trí quan trọng nhất của địch trong kế hoạch phòng thủ Thăng Long.
Đạo quân thứ ba do đô đốc Long (theo giáo sư Phan Huy Lê thì tướng chỉ huy đạo quân này là đô đốc Đặng Tiến Đông) chỉ huy gồm kỵ binh, tượng binh, bộ binh theo đường huyện Chương Đức (Chương Mỹ) tấn công vào khu vực đóng quân của Sầm Nghi Đống ở khu vực Đống Đa, sau đó phối hợp với đạo quân chủ lực của vua Quang Trung tràn vào đánh đại bản doanh của Tôn Sỹ Nghị.
Đạo quân thứ tư do đô đốc Tuyết chỉ huy, đây là đạo quân thủy binh, vượt biển theo đường sông Lục Đầu tấn công đội quân “Cần Vương” của nhà Lê ở Hải Dương, sau đó tiếp ứng cho các đạo quân khác tấn công vào Thăng Long.
Đạo quân thứ năm do đô đốc Lộc chỉ huy, cũng tiến quân theo đường thủy, khi tới Lục Đầu Giang thì nhanh chóng chuyển hướng lên vùng Lạng Giang, Yên Thế ... để chặn đường rút chạy của giặc.
Vua Quang Trung truyền cho quân lính và tướng sĩ ăn Tết Nguyên Đán trước. Đúng ngày 30 tháng chạp năm Mậu Thân (25/1/1789) sẽ xuất quân, Định trước rằng ngày 07 tháng Giêng thì sẽ tổ chức tiệc mừng ăn Tết khai hạ ở thành Thăng Long.
Trong khi quân ta tích cực chuẩn bị phản công thì quân Thanh tỏ ra rất chủ quan, kỷ luật lơi lỏng, lính các đồn tự tiện cướp bóc hà hiếp dân chúng. Một số quan lại nhà Lê đề nghị quân Thanh sớm tấn công, nhưng Tôn Sỹ Nghị lại huênh hoang: “Giặc gầy mà ta đang béo, hãy để chúng tự đến nộp thịt”.
Hắn quyết định đợi sang xuân, mùng 6 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789) sẽ xuất quân tấn công quân Tây Sơn. Để làm yên lòng Lê Chiêu Thống và quan lại nhà Lê, Tôn Sỹ Nghị đã chia quân đóng giữ ở phía Nam thành Thăng Long như: Ngọc Hồi (huyện Thanh Trì), Hạ Hồi (huyện Thường Tín), Nhật Tảo (huyện Duy Tiên) và điều một bộ phận quân Cần Vương của Lê Chiêu Thống tới giữ đồn Gián Khẩu, án ngữ đường tiến vào Thăng Long.
Bọn giặc cướp nước và lũ bán nước đâu có thể ngờ tới, với chiến thuật thần tốc, bất ngờ tấn công giặc, ngày 30 tháng Chạp quân chủ lực của vua Quang Trung vượt sông Gián Thủy tấn công căn cứ của giặc ở Gián Khẩu. Quân Cần Vương của nhà Lê nhanh chóng bị đánh tan, bỏ chạy đến huyện Phú Xuyên, bị quân Tây Sơn đuổi theo bắt sống không một tên nào chạy thoát, vì thế quân Thanh không hề biết được tin tức về việc tiến công của quân Tây Sơn.
Đêm ngày 3 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789), quân của vua Quang Trung bất ngờ bao vây chặt căn cứ của quân Thanh ở đồn Hạ Hồi và cho bắc loa gọi hàng. Tiếng loa vừa dứt, quân sỹ Tây Sơn đã đồng loạt cất tiếng dạ ran vang dội, tiếng dạ nhiều lần của quân ta được truyền đi truyền lại. Khiến quân Thanh ở trong đồn Hạ Hồi rụng rời chân tay, hoảng sợ hồn xiêu phách lạc, lúc này chúng mới biết quân Tây Sơn đã đến. Quân giặc vội vã kéo nhau ra xin hàng. Đồn Hạ Hồi bị tiêu diệt rất nhanh và gọn, quân ta thu được rất nhiều lương thực, vũ khí của giặc.
Trận quyết chiến Ngọc Hồi - Đống Đa
Căn cứ của quân Thanh đóng ở Ngọc Hồi có vị trí vô cùng quan trọng, chỉ cách thành Thăng Long hơn 10 cây số. Lực lượng quân Thanh ở đây rất mạnh, vũ khí được trang bị đầy đủ, lương thực dồi dào, dưới sự chỉ huy của đề đốc Hứa Thế Hanh.
Sau khi được tin đồn Hạ Hồi thất thủ, thì Tôn Sỹ Nghị lại nhận được tin cấp báo của đồn Ngọc Hồi. “Theo sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí – Ngô Gia Văn Phái, hồi thứ 14 thì quân sỹ của Tôn Sỹ Nghị nói với nhau: “Tướng Tây Sơn như từ trên trời rơi xuống, quân Tây Sơn như dưới đất chui lên”; còn bản thân Tôn Sỹ Nghị thì rút kiếm chém xuống đất và nói: “Thần tốc, thật là thần tốc” (SĐD); sau đó y điều một đội quân tăng viện cho Ngọc Hồi.
Mờ sáng ngày mùng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu, quân Tây Sơn tấn công vào đồn Ngọc Hồi, quân Thanh nổ súng chống trả, đạn bắn ra như mưa. Vua Quang Trung sai người lấy những mảnh ván, ghép ba mảnh lại làm một, lấy cỏ rơm xấp nước quấn ở ngoài rồi sai quân kiêu dũng cứ 20 người khiêng một mảnh, mỗi người dắt một con dao nhọn; lại có 20 người cầm khí giới theo sau, vua Quang Trung thân chinh cưỡi voi đốc chiến.
Thấy có gió Bắc, quân Thanh liền dùng ống phun lửa, khói tỏa mù trời, cách gang tấc cũng không nhìn thấy gì. Không ngờ trong chốc lát trời bỗng trở gió Nam, lửa khói tạt ngược trở lại về phía quân Thanh, làm cho chúng bị bỏng và khói bay mờ mắt – chúng đã tự mình hại mình. Chớp cơ hội, vua Quang Trung liền lệnh cho đội quân khiêng ván vừa che vừa xông thẳng lên phía trước, khi tới sát kẻ địch liền quăng ván và cầm dao ngắn áp sát địch để tấn công.
Những người cầm binh khí theo sau cũng nhất tề xông lên. Quân Thanh không chống cự nổi, các tướng nhà Thanh là Hứa Thế Hanh, Trương Sỹ Long, Thượng Duy Thăng... đều bị tiêu diệt. Quân Thanh hoảng loạn dày xéo lên nhau mà chạy, thái thú Điền Châu là Sầm Nghi Đống đóng ở gò Đống Đa bị quân ta bao vây đánh tới tấp. Thấy thế cùng lực kiệt, y đã thắt cổ tự tử.
Quân lính nhà Thanh đang bỏ chạy thì bỗng thấy quân Tây Sơn từ bờ đê Yên Duyên kéo tới, chúng lại càng thêm hoảng sợ, liền chạy theo đường Vinh Kiều mà trốn. Chợt lại thấy voi chiến của quân Tây Sơn từ Đại Áng kéo đến, quân Thanh hồn vía lên mây, kẻ thì trốn xuống đầm Mực, làng Quỳnh Đô, phần thì bị tiêu diệt, cuối cùng số còn lại xin đầu hàng quân ta.
Thành Thăng Long thất thủ - Tôn Sỹ Nghị liều mình chạy trốn
Tôn Sỹ Nghị nửa đêm được tin báo Ngọc Hồi thất thủ, quân Tây Sơn đang tiến vào, hắn hoảng hốt sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, dẫn bọn lĩnh kỵ mã còn lại vội vàng “chuồn” trước qua cầu phao rồi nhằm hướng bắc mà chạy... Quân sỹ nhà Thanh ở trong các doanh trại nghe tin, đều hoảng hồn, tan tác bỏ chạy ra bờ sông rồi tranh nhau qua cầu phao, xô đẩy nhau rơi xuống sông chết đuối rất nhiều. Đột nhiên cầu phao bị đứt, quân lính trên cầu đều rơi xuống nước, đến nỗi nước sông Nhị Hà bị nghẽn không chảy được nữa. Khi Tôn Sỹ Nghị chạy đến vùng Bắc Giang thì bị đạo quân của Đô đốc Lộc đón đánh, tiêu diệt nhiều tên. Chỉ còn rất ít quân lính giặc cùng Tôn Sỹ Nghị chạy thoát về biên giới. Vua Lê Chiêu Thống cùng một số viên quan lại nhà Lê hoảng hốt bỏ chạy theo Tôn Sỹ Nghị, rồi sống lưu vong ở Trung Quốc. Đạo quân Vân Nam và Quý Châu đóng ở miền Sơn Tây nghe tin Tôn Sỹ Nghị đã thua trận cũng vội vàng cuốn cờ chạy về nước. Trưa ngày mùng 6 tết Kỷ Dậu, vua Quang Trung, áo chiến bào đen sạm khói súng cùng với tướng sỹ “vào thành Thăng Long, hạ lệnh chiêu an, những người Hoa và binh lính lẩn trốn ra đầu thú đều được cho áo mặc, lương ăn. Lại bắt được ấn tín của Tôn Sỹ Nghị bỏ lại, trong những giấy má bắt được có tờ mật dụ của vua Càn Long”.... (Việt Nam sử lược – Tr.366) - gửi cho Tôn Sỹ Nghị, trước khi đem quân sang An Nam. Không đầy một tuần lễ, hơn 20 vạn quân Thanh đã bị quét sạch khỏi đất nước ta. Đúng như vua Quang Trung đã nói, ngày mùng 7 tháng Giêng (trừ một bộ phận quân ta đang truy đuổi giặc), các đạo quân đều được nghỉ ngơi ăn Tết khai hạ tại thành Thăng Long. Với quyết tâm sắt đá vì độc lập tự do của dân tộc, những chiến binh Tây Sơn, nhân dân Bắc Hà đã cùng vua Quang Trung thần tốc, nắm thời cơ có lợi nhất, bất ngờ bao vây tấn công địch, đánh nhanh diệt gọn, phản công chớt nhoáng, giải phóng kinh thành Thăng Long và toàn thể miền Bắc thoát khỏi ách đô hộ của giặc Thanh. Non sông đất nước trở lại thanh bình, thời gian cũng dần dần trôi qua, nhưng những chiến công hiển hách của quân đội Tây Sơn trong đấu tranh chống ngoại xâm bảo vệ độc lập dân tộc mãi mãi là bài học, là tấm gương không phai mờ. Các thế hệ con cháu người Việt Nam đã noi theo tấm gương lớn đó trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước.
 (VTC News) - Trước khi về nước các tướng giặc đều đến dinh Bồ Đề lạy tạ (vua) mà về. Bọn Phương Chính, Mã Kỳ... vừa cảm ơn vừa xấu hổ đến chảy nước mắt. 
Năm Canh Thìn (1400) Hồ Quý Ly phế bỏ vua Trần Thiếu Đế rồi tự xưng làm vua, thoán ngôi nhà Trần. Năm 1407 lấy cớ sang đánh nhà Hồ để lập dòng dõi nhà Trần, cứu cho dân khỏi khổ sở, Minh Thành Tổ huy động 80 vạn quân, sai Thành Quốc Công là Chu Năng làm đại tướng, chia binh làm 2 đạo sang đánh Đại Việt. Khi quân Minh đến Long Châu thì Chu Năng chết, phó tướng Trương Phụ được cử lên thay. Tuy vua tôi nhà Hồ đã phòng bị, nhưng trước sức mạnh của binh tướng nhà Minh, lại thêm lòng dân dao động vì tin theo lời hứa ủng hộ dòng dõi nhà Trần (của người Minh) nên nhà Hồ liên tiếp bị thất bại phải rút vào Thanh Hóa.
Tháng 4/1407 sau trận đánh ở cửa biển Kỳ La (cửa Nhượng) huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh, quân nhà Hồ hoàn toàn tan vỡ. Cha con Hồ Quý Ly cùng nhiều quần thần và tướng sĩ bị giặc Minh bắt đem về Trung Quốc.
Trận đánh khiến quân tướng phương Bắc tay rụng chân rời
Vua Lê Lợi chỉ huy đánh giặc. 
Cuộc kháng chiến của vương triều nhà Hồ chấm dứt, nhưng ở nhiều nơi nhân dân ta vẫn tiếp tục nổi dậy chống quân xâm lược Minh, dưới lá cờ Cần Vương của Giản Địch Đế Trần Ngỗi và của Trần Quý Khoáng. Đến năm 1413 các cuộc khởi nghĩa trên đều bị tướng nhà Minh là Trương Phụ đè bẹp. Sau khi chiếm được Đại Việt, nhà Minh thực hiện âm mưu đồng hóa người Việt. Sách “Việt Nam sử lược” của Trần Trọng Kim viết: “... Bọn Hoàng Phúc lại sửa sang các việc trong nước để khiến người An Nam đồng hóa với người Tàu. Lập ra đền miếu, bắt người mình cúng tế theo tục bên Tàu. Rồi từ cách ăn mặc cho chí sự học hành, cái gì cũng bắt theo người Tàu cả. Còn cái gì là di tích của nước mình như là sách vở thu nhặt đem về Tàu hết sạch. Lại đặt ra thuế lệ, bổ thêm sưu dịch để lấy tiền của, làm cho dân ta bấy giờ phải nhiều điều khổ nhục”. (SĐD – Tr.192). Bị áp bức bóc lột nặng nề, nhân dân ta kiên quyết đấu tranh, các cuộc khởi nghĩa liên tiếp nổ ra trong suốt những năm chiếm đóng của giặc Minh. Tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo. Mùa xuân năm 1418, Lê Lợi, Nguyễn Trãi... phất cờ nghĩa Lam Sơn, dấy lên phong trào đấu tranh chống giặc ngoại xâm nhằm “tiêu diệt giặc Minh để đem lại cái phúc thái bình muôn thuở”. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là cuộc trường kỳ kháng chiến của nhân dân Đại Việt, dưới lá cờ nghĩa của Bình định vương Lê Lợi diễn ra trong 10 năm (1418-1427). Mới đầu khởi nghĩa, toàn bộ nghĩa quân chỉ có hơn 600 người và 14 thớt voi. Cờ nghĩa vừa dương lên, quân nhà Minh do Mã Kỳ chỉ huy đã kéo đến đàn áp, tấn công nghĩa quân Lam Sơn. Quân ta phục binh ở Lạc Thủy đánh thắng trận đầu tiên. Năm Kỷ Hợi (1419) quân ta tấn công vào đồn Nga Lạc (thuộc Nga Sơn, Thanh Hóa), giết tướng Minh là Nguyễn Sao. Sau đó đại quân Minh tới vây ráp căn cứ Chí Linh.
Trận đánh khiến quân tướng phương Bắc tay rụng chân rời
Vua Lê Lợi. 
Lương thảo ngày càng cạn kiệt, quân lính hy sinh nhiều, giặc bao vây tứ phía, để giữ cho bộ chỉ huy và đặc biệt là minh chủ Lê Lợi được an toàn, Lê Lai đã liều mình giả làm Lê Lợi, mặc áo ngự bào, cưỡi voi xông ra trận, đánh với giặc Minh. Lê Lai đã hy sinh anh dũng, nhưng toàn bộ bộ chỉ huy quân khởi nghĩa đã được bảo vệ an toàn. Với tài năng của mình, Nguyễn Trãi đã cùng Lê Lợi liên tiếp vạch ra những sách lược thông minh, linh hoạt để tấn công giặc và bẻ gẫy các cuộc tấn công của quân Minh, phá tan đạo quân của tướng giặc là Trần Trí. Do bị địch vây hãm, lương thực cạn kiệt, Lê Lợi chủ trương giảng hòa với giặc Minh để củng cố lực lượng, tích luỹ lương thực, mộ thêm quân nghĩa.
Để phá thế bao vây của giặc, năm 1424, với sự tham mưu của các tướng lĩnh, Lê Lợi quyết định tấn công Nghệ An để giải phóng vùng Thanh - Nghệ và Tân Bình - Thuận Hóa nhằm mở rộng căn cứ của nghĩa quân.
“Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật/ Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay”
Năm 1424, theo kế hoạch của tướng Nguyễn Chích, Bình Định Vương quyết tâm hạ thành Nghệ An để mở rộng căn cứ, tạo binh lực tiến đánh thành Đông Quan sau này. Quân ta theo đường rừng, qua núi Bồ Lạp (có sách chép là Bồ Cứ) thuộc huyện Quỳnh Châu. Bình Định Vương cho phục quân và voi ở trong rừng để chờ giặc. Khi quân Minh kéo tới, bất ngờ hàng ngàn mũi tên từ trong rừng bắn ra, đá từ trên núi văng xuống, chiêng chống vang trời, quân ta như từ trên trời bay xuống, từ dưới đất mọc lên, ào ạt xung trận, quân giặc hoảng sợ kéo nhau chạy. Quân ta chém đầu Đô tướng nhà Minh là Trần Trung, tiêu diệt hàng ngàn quân giặc, bắt được hàng trăm ngựa chiến. Tàn quân Minh vội vã trốn chạy theo lũ bại tướng Phương Chính.
Đánh tan giặc ở phía sau, quân ra tiếp tục hành quân và phục kích ở trang Trịnh Sơn – Châu Trà Lân, đánh tan đạo quân của Cầm Bành và Sư Hựu, buộc chúng phải kéo quân chạy lên núi cắm trại để chờ quân tiếp viện. Quân ta vây chặt núi, khiến giặc vô cùng khốn đốn, cuối cùng Cầm Bành phải hạ giáp quy hàng. Toàn bộ vùng Trà Lân sạch bóng quân thù. Phương Chính, Sơn Thọ phải chạy về Nghệ An cố thủ. Để dụ giặc ra khỏi hang, quân ta tung tin rút quân và đốt doanh trại. Sau khi do thám thấy quả nhiên doanh trại đã bị đốt, giặc Minh liền đem quân đuổi theo, bất ngờ quân ta phục kích sẵn ở Bồ Ải (phía Tây huyện Thanh Chương, Nghệ An), khi giặc đến các tướng của Bình Địch Vương là Lê Sát, Lê Lễ... ào ạt xông ra chặn giặc, đánh tan quân Minh, bắt sống Chu Kiệt cùng hàng nghìn quân, chém tướng tiên phong là Hoành Thành. Trần Trí, Sơn Thọ vội vã kéo tàn quân rút về thành Nghệ An để chờ viện binh tới cứu.
Trận đánh khiến quân tướng phương Bắc tay rụng chân rời
Tượng Nguyễn Trãi. 
Tháng 4/1425, tham tướng nhà Minh là Lý An, đem quân thủy từ thành Đông Quan (Thăng Long) đến cứu viện. Bình Định Vương dự đoán thấy viện binh đến, nhất định giặc trong thành sẽ kéo quân ra tiếp ứng. Quân ta liền lui về đóng ở huyện Đỗ La, đào cửa sông La, phục quân trên bờ sông để chờ giặc tới.
Quả nhiên khi Trần Trí mở cửa thành dẫn quân vượt sông La, bị quân phục của ta đánh úp tiêu diệt nhiều tên giặc. Trần Trí càng sợ hãi vội rút quân vào thành, đóng chặt cửa thành cố thủ.
Tháng 5/1425, được tin thuyền lương của giặc do Trương Hùng chỉ huy với 300 chiến thuyền chở lương từ Đông Quan đến. Đoán trước giặc nhất định phải mở cửa thành để đón lương thảo, Lê Lợi sai Lê Lễ đem phục binh áp sát thành chờ sẵn.
Khi thuyền lương đến, giặc trong thành kéo ra, phục binh của ta đổ ra đánh, chém đầu thiên hộ Tưởng. Trương Hùng thấy vậy vội cho thuyền tháo lui. Lê Lễ hô quân đuổi theo, thuyền giặc quay đầu chạy, bất ngờ bị quân ta chặn ở trước mặt, sau lưng lại có quân đuổi. Quân giặc bị đánh bất ngờ, nhiều tên bị giết hoặc nhảy xuống sông bị chết đuối. Quân ta thu được nhiều thuyền lương của giặc.
Sau chiến thắng, nhận thấy thành Tây Đô còn ít quân, Bình định Vương sai Lê Lễ, Lê Sát, Lê Nhân, Lê Bí đi đường tắt đánh úp thành Tây Đô, tiêu diệt và bắt sống hàng ngàn quân giặc. Nhân dân Thanh Hóa nô nức xin tòng quân cứu nước và tham gia cùng nghĩa quân vây chặt thành Tây Đô.
Trong khi vây thành Tây Đô và thành nghệ An, Lê Lợi cử tướng Trần Nguyên Hãn, Lê Lễ đem quân giải phóng Tân Bình - Thuận Hóa. Với việc vận dụng mưu trí sách lược “nhử người tới, chứ không để người nhử tới”, Lê Lợi, Nguyễn Trãi và nghĩa quân Lam Sơn đã giải phóng một vùng rộng lớn từ Tam Điệp đến đèo Hải Vân. Vây chặt quân Minh ở thành Tây Đô, ở thành Nghệ An.
Nhận thấy thế và lực của quân ta ngày càng vững mạnh, Bình Định Vương Lê Lợi và Nguyễn Trãi chủ trương tấn công ra Bắc tiêu diệt quân giặc và đánh chặn viện binh của chúng.
Trận Tốt Động - Vương Thông bạt vía kinh hồn
Sau khi đem quân đến tiếp viện cho thành Đông Quan, ngày 16/10/1426, Tổng binh Vương Thông chia quân Minh làm 3 đạo để tiến đánh quân ta. Vương Thông đóng quân ở bến đò Cổ Sở (đò Phùng - thuộc xã Yên Sở, Thạch Thất, Hà Nội), cho làm cầu phao để đưa quân qua sông. Phương Chính đóng quân ở cầu Sa Đôi, Sơn Thọ. Mã Kỳ đóng quân ở gần cầu Thanh Oai. Quân giặc hạ trại liền nhau, kéo dài vài chục dặm, cờ xí rợp trời. Chúng hí hửng tin rằng với hàng chục vạn quân chỉ cần đánh một trận là bắt được Bình Định Vương Lê Lợi.
Mặc dù đội quân tiên phong của ta do tướng Lê Triện, Lê Bí chỉ huy ít hơn địch rất nhiều, nhưng nhận thấy không thể ngồi chờ địch tới, hai tướng liền chủ trương nhằm vào mũi đóng quân của Sơn Thọ và Mã Kỳ ở Thanh Oai để tấn công trước vì thực lực của đạo quân này yếu hơn hai đạo quân kia.
Quân ta bày kế nghi binh, nhử địch tới cầu Ba La (nơi đây có địa hình lầy lội, cây cối um tùm). Quân ta lại cho du binh đánh vào doanh trại của Mã Kỳ, Sơn Thọ rồi giả thua bỏ chạy.
Quân Minh đuổi theo, khi qua cầu Ba La, quân phục nổi dậy đánh ngang sườn đội hình giặc. Giặc bị bất ngờ, sa vào bùn lầy và bị tiêu diệt hàng ngàn tên. Số sống sót chạy về cầu Nhân Mục. Vương Thông vô cùng tức tối, y lên kế hoạch tấn công quân ta với ý đồ đặt pháo ở phía sau, chờ súng nổ. Thấy quân ta di động là địch xông vào tấn công.
Nắm được âm mưu của giặc, Lê Lễ được lệnh đem phục binh chờ giặc ở Thanh Đàm, mặt khác truyền lệnh cho ba quân, nếu nghe tiếng súng trận nổ thì ẩn náu, không đuợc manh động, chờ khi giặc tới gần, có hiệu lệnh mới được tấn công.
Quân giặc nổ pháo về phía quân ta, chúng thấy không có động tĩnh gì, tướng giặc liền xua quân tiến sâu vào. Khi chúng vào đến gần sông Yên Duyệt thì quân phục của ta ở ba phía đều nổi dậy, xông vào tấn công địch ở Chúc Động, Tốt Động phá tan quân giặc.
Thượng Thư Trần Hiệp, nội quan Lý Lượng cùng hàng vạn lính giặc bị tiêu diệt hoặc rơi xuống sông chết đuối. “Nước sông Ninh Kiều không chảy được, bắt sống được hơn 1 vạn người, thu giữ ngựa, khí giới, quân trang và xe cộ không kể xiết. Phương Chính theo đò khổ sở trốn về, bọn Vương Thông, Mã Kỳ chỉ thoát được thân chạy về thành Đông Quan” (ĐVSKTT).
Sau chiến thắng Tốt Động, làm bạt vía kinh hồn quân giặc, Bình Định Vương cho quân trấn giữ các đạo, bao vây thành Đông Đô (Đông Quan). Vương Thông cho người đưa thư xin hòa và xin cho đem tàn quân về nước.
Bình Định Vương thuận cho, nhưng Vương Thông bên ngoài thì cầu hòa, bên trong lại cho quân lính đào hào, đặt chông và cho người đem thư về nước xin viện binh. Quân ta bắt được người đưa thư của giặc, Bình Định Vương liền cắt quan hệ hòa hoãn với Vương Thông.
Để chặn đánh quân Minh ở các thành xung quanh Đông Quan, vua sai các tướng đi đánh thành Điêu Diêu và thành Thụy Cầu. Tướng Trịnh Khả và Lê Khuyển đánh thành Tam Giang. Tướng Lê Sát đánh thành Xương Giang. Trần Lựu, Lê Bôi đánh thành Kỳ Ôn. Chẳng bao lâu các thành trên đều rơi vào tay nghĩa quân. Bình Định Vương cho ổn định chính quyền ở các vùng đất đã được giải phóng, tuyển thêm quân, chuyển bị vũ khí sẵn sàng tiêu diệt viện binh của giặc đến giải vây cho thành Đông Quan.
Trận Chi Lăng - Liễu Thăng rơi đầu
Đầu năm 1427, vua Minh sai An viên hầu Liễu Thăng và Mộc Thạch chỉ huy 15 vạn quân, chia làm hai đường tiến vào nước ta. Trước tình hình trong nước vẫn còn giặc, ngoài biên ải thì giặc đang kéo vào, Lê Lợi để lại một số quân vây thành Đông Quan, sau đó cho tướng đem một vạn quân chặn Mộc Thạch ở ải Lê Hoa (Hà Giang). Một vạn quân được lệnh kéo lên mai phục ở ải Chi Lăng, hai vạn quân được lệnh sẵn sàng tiếp ứng cho mặt trận Chi Lăng. Đại quân thuỷ được lệnh tập trung ở sông Thương để chuẩn bị đánh địch.
Ngày 18, tổng binh nhà Minh là Chinh Lỗ tướng quân thái tử thái phó An Viễn Hầu Liễu Thăng đem 10 vạn binh và 2 vạn ngựa đánh vào cửa ải Pha Lũy. Lê Lợi chủ trương: “Đem quân nhàn rỗi, địch quân mỏi mệt, nhất định là thắng”.
Các tướng Lê Sát, Lê Nhân Trú, Lê Liệt... được lệnh nhử giặc vào sâu trong trận địa phục binh. Khi Liễu Thăng đánh ải Pha Lũy, Lê Lựu chống cự yếu ớt rồi lui quân về giữ cửa Ải Lưu.
Giặc đánh cửa Ải Lưu, quân ta lại lui về đóng ở Chi Lăng. Liễu Thăng hí hửng tưởng thắng liền thúc quân kỵ đuổi nhanh. Khi đến ải Chi Lăng, Lê Sát, Lê Nhân Chú lại sai Lê Lựu xông ra đánh. Đang đánh nhau Lê Lựu lại bỏ chạy, giặc đắc thắng ào đuổi theo. Ngày 20 Liễu Thăng đánh quân ta ở Chi Lăng, Lê Lựu cho quân lui về đến núi Mã Yên. Khi giặc rơi vào trận địa phục kích, quân phục của ta từ các phía đổ ra. Quân giặc rối trận, bị đánh tơi bời. Liễu Thăng bị chém ở sườn núi Mã Yên cùng hàng vạn quân lính. Chỉ trong 27 ngày, với tài dùng binh thao lược, nghĩa quân Lam Sơn đã tiêu diệt 10 vạn viện binh của địch do Liễu Thăng chỉ huy, làm thất bại âm mưu giải cứu thành Đông Quan của chúng. Đạo quân thứ 2 của giặc Minh do Mộc Thạch chỉ huy, đến cửa ải Lê Hoa đã bị quân dân ta dưới sự chỉ huy của Phạm Văn Sảo và Trịnh Khải kìm chân. Vua (Lê Lợi) đoán biết Mộc Thạch là viên tướng tuổi cao, từng trải chiến trận, tất sẽ đợi xem Liễu Thăng thành bại ra sao, chứ không dám liều lĩnh tấn công. Quả đúng như dự đoán, Mộc Thạch đã không dám mạo hiểm tung quân chiến đấu với quân ta ở ải Lê Hoa. Khi diệt được Liễu Thăng, Lê Lợi sai một viên tướng nhà Minh cùng ba viên thiên hộ bại trận – đem các sắc thư, phù ấn của Liễu Thăng đến quân của Mộc Thạch. Mặt khác, ta cho quân áp sát trại giặc. Quân tướng nhà Minh thấy vậy hoảng sợ, không kịp đánh nhau đã vội vàng rút chạy, mạnh tên nào tên ấy đi, đội hình rối loạn.
Quân ta thừa thắng đuổi đánh, diệt được hàng ngàn quân giặc ở ngòi Nước Lạnh và Đan Xá, thu giữ nhiều vũ khí và ngựa chiến, bắt được hàng nghìn tù binh. Mộc Thạch hết hồn, chỉ còn một mình một ngựa chạy thoát về bên kia biên giới.
Vương Thông đầu hàng - Cấp ngựa cho về cố quốc mà tay rụng, chân rời
Vua (Lê Lợi) sai người đem Phù song hổ và ấn tín của Liễu Thăng đến thành Đông Quan cho Vương Thông. Quan quân giặc hoảng sợ. Quân ta lại sắp rào gỗ và đồ đánh trận để vây thành Đông Quan, khiến tổng binh nhà Minh là Vương Thông phải sai người mang thư đến giảng hòa, xin mở cho đường về nước.
Vua đồng ý, nhưng Vương Thông ngoài mặt xin giảng hòa mà trong lòng vẫn do dự chưa quyết. Thấy quân ta đắp lũy, Vương Thông liền đem hết quân trong thành ra đánh.
Quân ta mai phục sẵn, khi đánh giả thua bỏ chạy. Giặc Minh đuổi theo, quân phục đổ ra dốc sức đánh, phá tan quân giặc. Vương Thông ngã ngựa, suýt bị bắt, vội vã chạy về thành. Vì quá hoảng sợ, Vương Thông vội viết tấu thư gửi về nước cho vua Minh, trình bày lý do xin giảng hòa với quân ta. Trong tấu có đoạn: “Chớ tham đất một góc mà làm nhọc quân đi muôn dặm, giả sử dùng quân được như số quân đi đánh khi đầu, lại được 6, 7, 8 đại tướng như bọn Trương Phụ thì mới có thể đánh được, tuy nhiên có đánh được cũng không thể giữ được...” (ĐVSKTT-Tập2-Tr.72). Các tướng xin đánh thành, Hành khiển Nguyễn Trãi vì xem được tấu thư của Vương Thông gửi về nước (do quân ta bắt được người đưa thư) nên khuyên vua (Lê Lợi) cần chuyên chú giải hòa. Vua nghe theo lời liền cho quân đang bao vây lùi ra xa ngoài thành.
Vương Thông xin hòa và cho Vương Thọ, Mã Kỳ ra làm con tin ở dinh Bồ Đề. Bấy giờ các tướng sĩ và nhân dân trong nước rất oán giặc Minh vì chúng đã giết hại bố mẹ, họ hàng, vợ con của họ, nên rủ nhau đến xin vua giết giặc đi. Vua dụ rằng: “Trả thù báo oán là thường tình của mọi người, mà không thích giết người là bản tâm của người nhân. Vả lại người ta hàng rồi mà giết thì việc bất tường, không gì lo bằng. Để thỏa lòng giận trong một buổi mà mang tiếng giết người đầu hàng mãi mãi muôn năm, chi bằng tha mạng cho ức vạn người mà tuyệt mối chiến tranh sau này, sử xanh ghi chép, tiếng thơm muôn đời, há chẳng lớn sao.” (ĐVSKTT-Tập 2-Tr.74).
Sau khi có hòa ước, nhiều quan lại quân lính nhà Minh đã xin ở lại phương Nam, Vương Thông đều đồng ý.
Tháng 12, ngày 12 năm 1427 được quân ta cấp cho ngựa, cỏ, lương thực, lại có người dẫn đường nên Vương Thông đã sai quân bộ vượt sông Lô đi trước về nước (Trung Quốc).
http://media.yeutretho.com/2013/10/08/1381199495-7-lan-giai-phong-thu-do-trong-lich-su-dan-toc-anh-1.jpgQuân thủy gồm 8600 người do Mã Kỳ, Phương Chính theo đường thủy rút về nước với 500 chiếc thuyền được quân ta cấp phát và lương thực đầy đủ.
Minh sử Q.31 chép: “Tháng 11 (Vua Minh) dụ cho Thông và quan tam ti triệt hết quân dân về Bắc. Chiếu (chỉ) chưa đến thì Thông đã bỏ Giao Chỉ do đường bộ về Quảng Tây. Trung quân Sơn Thọ và Mã Kỳ cùng các quan tam ti là Thú Lệnh thì do đường thuỷ về Khâm Châu. Được về chỉ có 8 vạn 6 nghìn người. Bị giặc giết và giữ lại không xiết kể.” (SĐD)
“Trước khi về nước các tướng giặc đều đến dinh Bồ Đề lạy tạ (vua) mà về. Bọn Phương Chính, Mã Kỳ... vừa cảm ơn vừa xấu hổ đến chảy nước mắt”. (ĐVSKTT-Tập 2-Tr.75).
Sau chiến thắng chống quân xâm lược Minh, vua (Lê Lợi) sai Nguyễn Trãi soạn bố cáo (Bình ngô đại cáo) khắp thiên hạ. Đoạn kết của bài Bố cáo viết: “Oai thần không giết, ta thề lòng trời cao mà tỏ hiếu sinh/ Bọn tham chính Phương chính, nội quan Mã Kỳ, trước cấp cho 500 thuyền, đã qua sông mà hồn xiêu phách lạc/ Bọn tổng binh Vương Thông, tham chính Mã Anh, lại cấp cho mấy trăm ngựa, đã về nước mà còn tay rụng chân rời/ Ôi! Một gươm cả định rốt cuộc lên nghiệp khôn bì/ Xã tắc do đó vững bền/ Non sông do đó tươi đẹp/ Càn khôn đã bĩ mà thái lai/ Nhật nguyệt đã mờ mà sáng ra/ Để cho dựng thành nền muôn thuở thái bình…”.
Dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi, với sự tham mưu tài tình của Nguyễn Trãi, sự trí dũng của các tướng, sự dũng mãnh, tinh luyện của binh lính, cuộc chiến tranh giải phóng của đất nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi. Từ trận Lạc Thủy đầu tiên năm 1414 đến chiến thắng Chi Lăng, Xương Giang (1427), toàn dân ta đã trải qua 10 năm “nếm mật nằm gai” đấu tranh cực kỳ anh dũng đánh đuổi quân xâm lược, viết lên những trang sử chói lọi vinh quang trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ non sông đất nước.
Nhà sử học Đặng Hùng (VTC News) - Quân sĩ hừng hực dũng khí. Không một người lính nào không thấy vinh dự khi được hy sinh cứu nước. Các chiến sỹ và nhiều người dân đã tự chích vào tay hai chữ Sát Thát (Giết giặc Mông Cổ) để nói lên quyết tâm của mình. Ba lần đánh bại Nguyên Mông
Tháng Chạp năm Ất Dậu (1225) Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, chấm dứt giai đoạn nhà Lý cai trị Đại Việt và cũng là thời kỳ mở đầu của vương triều Trần ở nước ta. Trần Cảnh lên làm vua (Trần Thái Tông), phong cho Trần Thủ Độ là Thái sư thống quốc thành quân Chinh Thảo Sự.
Sau khi thay thế nhà Lý (ở giai đoạn này đã quá suy yếu về chính trị, quân sự, kinh tế) - Triều đình nhà Trần tích cực đẩy mạnh việc phát triển kinh tế nông nghiệp, quai đê lấn biển, tiêu diệt các thế lực chống đối, ổn định tình hình chính trị trong nước, chính quyền trung ương tập quyền được củng cố vững chắc hơn so với triều trước.
Ở đất nước Mông Cổ, năm 1206 Thành Cát Tư Hãn lên làm vua. Nhà nước phong kiến Mông Cổ được hình thành và phát triển, nhanh chóng trở thành một đế quốc lớn mạnh chưa từng có trong lịch sử thế giới từ trước đến giờ. Quân Mông Cổ dưới sự lãnh đạo của Thành Cát Tư Hãn đã xâm lược rất nhiều nước Châu Âu và Châu Á. Ở Châu Âu vó ngựa Mông Cổ đã tiến đến Ba Lan và Đức, Hungari và tới sát Ý vào năm 1242, khiến cả Châu Âu chấn động.
“Theo sử biên niên của nước Pháp thì mối lo sợ trước quân Mông Cổ đã làm đình trệ cả sự buôn bán”. Ở Đức xuất hiện bài kinh cầu nguyện “Chúa cứu vớt chúng con khỏi cơn thịnh nộ của Tác-ta – Mông Cổ”.
Ở phía Nam quân Mông Cổ chiếm Trung Quốc, Cao Ly, tấn công Nhật Bản... Một đế quốc Mông Cổ rộng mênh mông được tạo lập từ bờ biển Hắc Hải đến tận Thái Bình Dương.
Quân đội Mông Cổ với lực lượng kỵ binh thiện chiến đánh đâu thắng đấy! Nhưng cả ba lần xâm lược Đại Việt, với 1 triệu quân, thì bị đánh cho đại bại. Chủ tướng Thoát Hoan phải chui vào ống đồng để quân lính “kéo” về Vân Nam. Toa Đô, dũng tướng khét tiếng của Mông Cổ bị rơi đầu. Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp bị bắt, trở thành vật tế sống ở mộ các vua Trần...
Lịch sử dân tộc đã ghi những chiến công oanh liệt của quân nhân thời Trần vào thế kỉ thứ 13. Đúng như lời thơ hào sảng của Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải sau chiến thắng chống Nguyên Mông: “Chương Dương cướp giáo giặc/ Hàm Tử giết quân thù/ Thái Bình nên gắng sức/ Non nước ấy ngàn thu”.
“Đầu tôi chưa rơi xuống đất xin bệ hạ đừng lo”
Năm 1257, chúa Mông Cổ là Mông Kha tế cờ trên bờ sông Kê-Ru-Len rồi xuất quân đánh nhà Tống (Trung Quốc). Nguyên sử (Trung Quốc) quyển 209 - phần An Nam truyện chép rằng: “Ngột Lương Hợp Đài (Hốt Tất Liệt chiếm được nước Đại Lý để Ngột Lương Hợp Đài ở lại toan đến đánh chiếm Giao Chỉ), đóng binh ở phía Bắc Giao Chỉ, sai hai sứ giả sang trước để dụ” (SĐD –Tr.467). “Vua Trần Thái Tông không những không chịu đầu hàng mà cho bắt giam sứ Mông Cổ” (VNSL-Tr.120).
Tháng 12, ngày 12, tướng nhà Nguyên là Ngột Lương Hợp Đài xâm lấn Bình Lệ. Sách Nguyên sử - Q.209 chép: “Thấy sứ giả không trở về Ngột Lương Hợp Đài bèn sai bọn Triệt Triệt Đô đem 1000 người chia đường mà tiến đến trên sông Thao ở Kinh Bắc nước An Nam. Lại sai con là A Truật sang giúp và nhòm ngó tình hình. Người Giao (Chỉ) cũng bày nhiều binh vệ. A Truật trở về báo Ngột Lương Hợp Đài để tiến gấp. Sai Triệt Triệt Đô làm tiên phong, A Truật đi sau. Tháng 12, hai quân hợp nhau” (SĐD-Tr.468).
Trận đánh kinh động cả thế giới của người Việt
Đền thờ nhà Trần ở Thái Bình. 
Khi quân Mông Cổ do Ngột Lương Hợp Đài tấn công Bình Lệ, vua Trần Thái Tông tự làm tướng đốc chiến đi trước xông pha tên đạn. Tướng Lê Phụ Trần một mình một ngựa ra vào trận giặc, sắc mặt như thường.
Thế giặc mạnh, quân ta lui về giữ ở sông Lô. Giặc bắn tên như mưa xuống thuyền của vua, tướng Lê Phụ Trần liền lấy ván thuyền để chắn tên cho vua. Trước sự hung hãn và mạnh mẽ của quân giặc, vua Trần dời thuyền đến hỏi Thái sư Trần Thủ Độ. Thái sư trả lời: “Đầu tôi chưa rơi xuống đất thì bệ hạ không cần lo ngại gì cả” (ĐVSKTT-Tr.470).
Để tránh sức mạnh ban đầu của giặc, quân ta chỉ để lại một bộ phận chặn giặc và làm nghi binh, còn đại quân được lệnh rút về Hưng Yên, Thiên Trường, Long Hưng...
Kinh thành bỏ trống, nhân dân trong thành Thăng Long được lệnh làm theo kế “Thanh Giã” (vườn không nhà trống). Quân Mông Cổ tiến vào thành Thăng Long mới phát hiện cả thành trống rỗng, Ngột Lương Hợp Đài tức giận cho quân cướp bóc, tàn phá kinh thành, giết cả những nam phụ lão ấu trong thành do không sơ tán kịp.
Lương thực của quân giặc mang theo đã cạn, kinh thành lại trống không, kẻ địch đã cố gắng tiến hành những cuộc cướp phá ở những vùng xung quanh thành Thăng Long, nhưng đến đâu chúng cũng gặp sức chống trả mãnh liệt của nhân dân.
Khi quân Mông Cổ tiến đến Cổ Sở (nay là Yên Sở, huyện Hoài Đức, Hà Nội) nhân dân ở đây đã đoàn kết chiến đấu, đánh cho chúng một trận tơi bời, xác giặc ngổn ngang, ngựa chúng sập hầm, trúng chông què, lũ cướp nước tan tác bỏ chạy. Không có lương thảo, binh sĩ mỏi mệt, lại thêm khí hậu khắc nghiệt, quân xâm lược Mông Cổ lâm vào tình thế tiến lui đều gặp khó khăn.
Nắm chắc thời cơ thuận lợi, ngày 24, tháng Chạp năm Nguyên Phong thứ 7 (29/01/1258), vua Trần Thái Tông cùng thái tử Hoảng chỉ huy lâu thuyền ngược dòng Thiên Mạc phá tan giặc ở Đông Bộ Đầu, chiếm lại kinh thành.
Bị đánh bật khỏi thành Thăng Long, quân Mông Cổ quay đầu rút chạy về Vân Nam. Đang lúc chỉ mong thoát thân thì chúng lại bị đồng bào dân tộc vùng núi ở trại Quy Hóa theo trại chủ là Hà Bổng đổ ra tập kích. Bị đánh bất ngờ, quân giặc bỏ chạy tháo thân và bị thiệt hại nặng nề về người, vũ khí, quân trang.
Trận đánh kinh động cả thế giới của người Việt
Tượng Trần Hưng Đạo. 
Khác hẳn với thái độ nghênh ngang hung hãn khi tiến quân vượt biên giới vào Đại Việt, bọn xâm lược Mông Cổ bị đánh cho tan tác, mạnh ai nấy chạy, lén lút tìm đường vượt biên giới trốn chạy cho nhanh. Chúng không còn dám nghĩ đến chuyện cướp bóc, đốt phá, tranh giành của cải như khi mới sang.
Để chế giễu thái độ đó của chúng, người thời bấy giờ đã gọi chúng bằng cái tên rất mỉa mai là “Giặc Phật”. Cuối tháng Giêng (1258), địch hoàn toàn rút khỏi nước ta.
Thắng lợi của quân dân Đại Việt trong chiến tranh lần thứ nhất chống Mông Nguyên, không những đã bảo vệ được nền độc lập dân tộc mà còn bẻ gãy một gọng kìm của quân Mông Cổ định chiếm xong nước ta thì tấn công vào miền Nam Trung Quốc tiêu diệt triều đình nhà Nam Tống.
Cuộc chiến đấu và chiến thắng năm Nguyên Phong thứ 7 do vua Trần Thái Tông và tướng quốc Trần Thủ Độ chỉ huy mãi mãi là niềm tự hào được ghi trên những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam anh hùng.
Vua Trần Nhân Tông sau này trong bài thơ “Ngày Xuân yết bái Chiêu Lăng” đã viết: “Bạch đầu quân sĩ tại .... Vãng vãng thuyết nguyên phong...” (Người lính già đầu bạc ... Kể mãi chuyện nguyên phong).
“Chương Dương cướp giáo giặc, Hàm Tử bắt quân thù”
Sau khi đánh đổ nhà Nam Tống (1279) chiếm toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc, quân Mông Cổ ngày càng trở nên hùng mạnh. Hốt Tất Liệt đổi quốc hiệu là Đại Nguyên, chuẩn bị những cuộc viễn chinh mới để thực hiện mưu đồ thống trị thế giới.
Ở phía Đông chúng chuẩn bị đánh Nhật Bản, phía Nam âm mưu chiếm các nước Đông Nam Châu Á rồi tiến đánh Ấn Độ...
Mục tiêu đầu tiên để tràn xuống Đông Nam Á của quân Nguyên là phải san bằng được Đại Việt. Hốt Tất Liệt huy động một đội quân tinh nhuệ, đông tới 60 vạn người do con trai của y là Trấn Nam Vương Thoát Hoan chỉ huy. Bên cạnh Thoát Hoan còn có hàng chục viên tướng nổi tiếng khác đó là A-Rích-Kha-A, Ô Mã Nhi, Lý Hằng, Lý Quan, Toa Đô...
Năm 1282 Hốt Tất Liệt cử Toa Đô dẫn 10 vạn quân tấn công Chiêm Thành, sau đó Thoát Hoan đem quân tấn công nước Đại Việt ở phía Bắc, tạo thế gọng kìm kẹp quân ta vào giữa hai đạo quân Mông Cổ để tiêu diệt.
Sau chiến thắng năm 1258, nhà Trần chủ trương vừa mềm dẻo, vừa kiên quyết duy trì quan hệ ngoại giao với nhà Nguyên. Nhưng mặt khác vẫn chủ động tích cực chuẩn bị đối phó với âm mưu xâm lược lần thứ hai của giặc. Năm 1282 nhà Trần không đồng ý cho quân Nguyên mượn đường sang đánh Chiêm Thành, vì biết đây là kế “Giả đò diệt quắc” của giặc. Trái lại quân ta còn tích cực ủng hộ Chiêm Thành chống quân Nguyên xâm lược.
Trước âm mưu xâm lược của Nhà Nguyên ngày càng lộ rõ, tháng 10 (1282) vua Trần tổ chức hội nghị Bình Than cùng triều đình và các vương hầu bàn kế chống giặc.
Vị tướng tài Trần Quốc Tuấn được cử làm Quốc công tiết chế thống lĩnh toàn quân. Hội nghị vương hầu bách quan ở Bình Than có mục đích “bàn kế đánh phòng” và “chia quân giữ nơi hiểm yếu”.
Trần Quốc Toản tuy tuổi còn nhỏ, không được dự họp đã bóp nát quả cam cầm trong tay mà không biết. Sau đó Quốc Toản trở về lập một đội quân hơn nghìn người, sắm vũ khí, đóng chiến thuyền chờ ngày giết giặc cứu nước. Trên lá cờ của người thiếu niên anh dũng đó có 6 chữ: “Phá cường địch, báo hoàng ân” (Phá giặc mạnh, báo ơn vua).
Tháng 8, năm Giáp Thân (1284) quân ta hội quân tại bến Đông Bộ Đầu tổng cộng có trên 20 vạn quân duyệt binh, sau đó các tướng Trần Bình Trọng, Trần Khánh Dư, Trần Quang Khải... được lệnh đem quân trấn giữ các vùng xung yếu trong nước để đề phòng quân Nguyên tràn sang.
Sau đó vua Trần cho triệu tập hội nghị Diên Hồng lịch sử, nhằm động viên sự nhất trí chống giặc trong nhân dân. Yến tiệc được mở ra tại thềm điện Diên Hồng, Vua hỏi các bô lão: “Thế giặc mạnh, chúng ta nên hòa hay nên đánh?”. Trả lời cho câu hỏi của vua Trần là tiếng hô vang của hàng vạn phụ lão “Đánh, Đánh”, “vạn người cùng nói như từ một miệng” (Toàn thư).
Tiếng hô “Đánh” của các phụ lão ở điện Diên Hồng biểu lộ tinh thần quyết chiến của toàn dân Đại Việt. Đúng như người xưa nói: “Người chèo thuyền là dân, người lật thuyền cũng là dân” (Sức dân mạnh như sóng biển). Những bậc phụ lão, những đại biểu có uy tín của nhân dân đã nói lên tiếng nói của cả dân tộc.
Hội nghị Diên Hồng là một cuộc họp mặt đại biểu rộng khắp của toàn dân - độc nhất vô nhị trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Các bô lão đã mang tới cho vua Trần và triều đình câu trả lời quyết chiến của nhân dân ở các lộ trong cả nước, và cũng mang từ Thăng Long về mọi miền quê cái không khí quyết tâm chống giặc giữ nước của hội nghị Diên Hồng và quyết tâm của Triều đình.

Nhà sử học Ngô Sỹ Liên sau này nhận xét: “Đó là Thánh Tông (chỉ vua Trần) muốn xem sự ái hộ thành thật của hạ dân và muốn cho họ nghe dụ hỏi mà cảm kích phát lên” (Toàn thư –Q.5-Tr.44b). Với lòng yêu nước nồng nàn, ở khắp các lộ (thời Trần chia nước làm các phủ - lộ) trong nước có những bảng treo dòng chữ: “Tất cả các quận huyện trong nước, nếu có giặc ngoài đến phải liều chết mà đánh, nếu sức không địch nổi thì cho phép lẩn tránh vào rừng núi, không được đầu hàng” (Theo sách Nguyên sử của Trung Quốc – Q.209-Tr.7).

Trong không khí: “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” ấy thì lời hịch của Trần Quốc Tuấn kích động lòng dân và quân háo hức quyết tâm bảo vệ Tổ quốc của mình: “...Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo, thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn, làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức, nghe nhạc Thái thường đãi yến Ngụy sứ mà không biết căm. Hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển... hoặc quyến luyến vợ con, hoặc lo làm giàu mà quên việc nước... nếu có giặc Mông Thát tràn sang... tiền của dẫu nhiều không mua được đầu giặc, chó săn tuy khỏe không đuổi được quân thù... lúc bấy giờ chủ tôi nhà ta cùng bị bắt đau xót biết chừng nào; chẳng những thái ấp của ta không còn, mà bổng lộc các ngươi cũng về tay kẻ khác, chẳng những gia quyến ta bị đuổi, mà vợ con các ngươi cũng bị bắt đi, chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục, rồi đến trăm năm sau, tiếng dơ khôn rửa, tên xấu còn lưu... Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi phỏng có được không?

....Vì sao vậy? Giặc Mông Thát với ta là kẻ thù không đội trời chung, mà các ngươi cứ điềm nhiên không muốn rửa nhục, không lo trừ hung, lại không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà chịu đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi đây sau khi dẹp yên quân giặc, muôn đời để thẹn, há còn mặt mũi nào đứng trong cõi trời che đất phủ này nữa. Vậy ta viết bài hịch này để các ngươi biết rõ lòng ta”.

Bài hịch đã xoáy vào những nỗi uất ức căm thù của tướng sĩ trong bao nhiêu năm, mà phấn kích tinh thần chiến đấu của họ. Quân sĩ hừng hực dũng khí. Không một người lính nào không thấy vinh dự khi được hy sinh cứu nước. Các chiến sỹ và nhiều người dân đã tự chích vào tay hai chữ Sát Thát (Giết giặc Mông Cổ) để nói lên quyết tâm của mình.

Cuối năm 1284 Thoát Hoan tiến quân vào nước ta, giặc chia quân làm 2 mũi đánh vào Tuyên Quang và Lạng Sơn. Quân ta chủ động chặn giặc ở Lạng Sơn rồi lui vào khu vực ở Lạng Giang và Vạn Kiếp.
Thoát Hoan liền chia quân làm ba mũi ý dịnh vây chặt quân ta để tiêu diệt. Với thế mạnh như chẻ tre, quân giặc tưởng chừng như đè bẹp ngay được quân dân Đại Việt, nhưng với thiên tài quân sự của mình, Trần Quốc Tuấn đã nhận định: “Nguyên binh khí nhuệ đang hưng, kíp đánh chẳng bằng kiên thủ chờ suy”.
Sau đó quân ta rút lui để bảo toàn lực lượng theo 2 hướng Thăng Long – Thiên Trường và một bộ phận rút về hướng Quảng Yên để giặc lầm tưởng vua quan triều Trần chạy ra biển.
Ngày 13 tháng Giêng (19/2/1285), quân Nguyên tiến vào kinh thành Thăng Long đã bị bỏ trống. Toa Đô lúc này được lệnh đem quân từ Chiêm Thành tiến ra, Thoát Hoan cho Ô Mã Nhi dẫn quân đi đường biển để tiếp ứng cho Toa Đô đánh từ phía Nam đánh ra.
Tướng Trần Quang Khải của ta dùng lối đánh chặn từng bước, đã chặn đứng được quân Toa Đô ở giáp giới giữa Thanh Hóa và Nghệ An, ngăn không cho chúng ra Bắc.
Tháng 2 (1285) địch cho quân tiến xuống Hưng Yên, Hà Nam, Thiên Trường, truy kích đại quân của vua Trần. Tại bãi Đà Mạc (Hưng Yên) tướng Trần Bình Trọng được lệnh chặn quân truy đuổi của giặc để vua và Đại quân di chuyển về Thiên Trường, Thanh Hóa.
Khi đại quân Nguyên tới, Trần Bình Trọng tả xung hữu đột chiến đấu, nhưng vì địch đông ta ít nên cuối cùng ông bị sa vào tay giặc. Thoát Hoan muốn dụ hàng nên hỏi ông rằng: “Có muốn làm vương đất Bắc không?” Trần Bình Trọng quát lên: “Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc”....
Thoát Hoan thấy không dụ được ông liền sai quân đem chém. Vua, quan, quân triều đình nhà Trần nghe tin Trần Bình Trọng tử tiết ai cũng tỏ lòng thương xót.
Đi đôi với kế “Vườn không nhà trống”, khắp nơi dân binh kết hợp với quân lính nhà Trần tổ chức đánh úp, đánh tỉa, đánh phục kích các toán quân địch đi sục sạo cướp bóc lương thảo.
Do chủ quan tưởng có thể thắng nhanh, quân Nguyên không tải theo nhiều lương thực vì thế bị thiếu ăn, lòng quân ngày càng hoang mang dao động. Hai mũi quân giặc do Thoát Hoan và Toa Đô chỉ huy lại không kết hợp được với nhau.
Để gỡ thế bí, Thoát Hoan thúc giục Toa Đô nhanh chóng tiến ra Bắc để hội quân với y cho có thêm sức mạnh tiếp tục tấn công Đại Việt. Nắm được ý đồ của giặc, thấy thời cơ đã đến. Vua Trần và Trần Quốc Tuấn quyết định nhằm đạo quân Toa Đô để đánh trận phủ đầu tiêu diệt địch.
Đạo quân Toa Đô đánh nhau với Trần Quang Khải ở Thanh Hóa và Nghệ An mãi không thắng được, lương thực ngày một kiệt quệ. Nhận lệnh của Thoát Hoan phải ra Bắc hội quân nên y cùng Ô Mã Nhi xuống thuyền vượt biển để ra Thăng Long.
Vua Trần và Trần Quốc Tuấn chủ trương không để cho giặc hội quân vì thế đến tháng Tư (1284) đã cử Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật làm tướng chỉ huy, Trần Quốc Toản làm phó tướng cùng tướng quân Nguyễn Khoái đem 5 vạn quân phục kích ở khu vực bến Hàm Tử (thuộc Đông An, Hưng Yên). Quân ta dựa vào lau sậy mọc um tùm hai bên bờ sông để đón đánh thuyền giặc.
Trận địa mai phục vừa xong thì thuyền chiến của Toa Đô dẫn xác tới. Quân ta từ nhiều phía bổ vây địch. Lúc đó, trong đội quân của tướng Trần Nhật Duật còn có Triệu Trung là tướng nhà Tống (đầu quân trong đạo quân của Trần Nhật Duật) mặc áo, đeo cung tên như quân Tống, cũng tham gia chiến đấu rất dũng mãnh đánh đuổi quân Nguyên. Bị đánh úp bất ngờ quân Nguyên hoảng loạn nhảy xuống sông và bị thiệt hại rất nặng. Số quân còn lại theo Toa Đô rút ra cửa biển Thiên Trường. Thời cơ đã đến, Hưng Đạo Vương và vua Trần chủ động tấn công Thành Thăng Long. Thực hiện sách lược đã được vạch ra, quân ra đã đánh một trận rất lớn và rất tài tình, đó là trận: Chương Dương.
Lúc đó Đại quân của Thoát Hoan đóng ở Thăng Long, chiến thuyền giặc đóng ở bến Chương Dương.
Sau chiến thắng Hàm Tử, Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải, Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản cùng các tướng khác được lệnh đem quân đánh Chương Dương và thành Thăng Long.
Phối hợp với quân chủ lực của triều đình còn có các đạo quân binh ở các lộ do Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp, Nguyễn Tuyền chỉ huy. Đây là trận mà quân ta đã phối hợp tốt giữa quân địa phương và dân binh với quân triều đình. Quân ta bí mật đánh úp, áp sát thủy trại giặc. Bị bất ngờ, quân giặc đạp lên nhau mà chạy lên bờ để trốn về thành Thăng Long. Quân ta truy sát địch tới sát chân thành. Thoát Hoan vội đem đại quân ra tấn công, quân ta giả vờ thua chạy, địch đuổi theo liền bị phục binh của Trần Quang Khải đổ ra đánh, quân Nguyên phải bỏ thành Thăng Long chạy qua sông Hồng, rồi đóng quân tại vùng Kinh Bắc (Bắc Ninh).
Tài liệu thời Nguyên (Trung Quốc) chép: “Thủy lục đến đánh vào đại doanh, vây thành mấy vòng, quan quân (chỉ quân Nguyên) sớm tối đánh khốn đốn, thiếu thốn lương thực, khí giới đều hết”.
Trần Quang Khải đem quân vào thành Thăng Long, cảm khái trước sự dũng mãnh của dũng sĩ và nhân dân, ông đã viết: “Chương Dương cướp giáo giặc/ Hàm Tử giết quân thù/ Thái Binh nên gắng sức/ Non nước ấy ngàn thu”. Toa Đô đóng quân ở Thiên Trường, cách Thoát Hoan hơn 200 dặm (không biết Thoát Hoan đã thua trận, thoát chạy về Bắc Giang rồi), cho quân tiến về sông Thiên Mạc với ý đồ hợp quân với Thoát Hoan. Khi được tin Thoát Hoan đã bại trận, Toa Đô liền rút quân về đóng ở Tây Kết, rồi cho người đi dò tin tức của Thoát Hoan.
Sau chiến thắng Hàm Tử, Chương Dương, Trần Hưng Đạo cho các tướng Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải chia quân chặn các ngả đường không cho Thoát Hoan và Toa Đô thông tin được với nhau. Tiếp đó Hưng Đạo Vương đem binh đến Tây Kết chia quân đánh trại quân Nguyên và đặt phục binh để bắt Toa Đô.
Quân ta càng đánh càng hăng, quân Nguyên địch không nổi, Toa Đô và Ô Mã Nhi đem tàn quân chạy lên bờ tìm đường bộ ra biển, nhưng bị phục binh của ta vây đánh.
Tương truyền tướng quân Nguyễn Khoái đã bắn chết Toa Đô tại trận, còn Ô Mã Nhi tìm đường chạy vào Thanh Hóa. Khi bị quân ta truy đuổi y đã vội vàng xuống thuyền, một mình liều chết chạy ra biển trốn về Trung Quốc.
Trận Tây Kết diễn ra vào tháng 5/1285, quân ta tiêu diệt toàn bộ 8 vạn quân của Toa Đô (bắt sống hơn 5 vạn quân Nguyên và hàng trăm chiến thuyền cùng nhiều khí giới không kể xiết. Viên tướng Toa Đô bị chém rơi đầu, nhưng với tấm lòng nhân đạo của mình, vua Trần Nhân Tông đã sai khâm liệm và làm lễ mai táng cho y rất chu đáo). Tin Toa Đô bị chém, Ô Mã Nhi bỏ chạy ra biển làm cho Thoát Hoan và tướng sĩ Nguyên đều hoảng sợ, bàn cách chuồn về nước.
Hưng Đạo Vương đoán biết ý đồ tháo chạy của Thoát Hoan liền sai tướng Nguyễn Khoái và Phạm Ngũ Lão dẫn 3 vạn quân phục sẵn ở bên sông Vạn Kiếp. Hai con ông là Hưng Võ Vương Nghiễn và Hưng Hiếu Vương Úy dẫn 3 vạn quân theo đường Hải Dương ra Quảng Yên, mục đích không cho địch chạy về châu Tư Minh (Trung Quốc).
Hưng Đạo Vương tự mình dẫn đại quân tấn công Thoát Hoan ở Bắc Giang, tiêu diệt một bộ phận lớn quân giặc. Thoát Hoan cố sống cố chết chạy về Vạn Kiếp, tưởng đã thoát thân nào ngờ y chưa kịp hoàn hồn thì bị phục binh của ta đổ ra đánh.
Quân giặc vội vã bắc cầu phao vượt sông Sách (tức sông Thương đoạn chảy qua vùng Vạn Kiếp). Cánh quân của Viên tả thừa Tang-Gu-Tai chưa kịp chạy thì bị quân mai phục của ta từ trong rừng đổ ra đánh, khiến chúng xô đạp nhau chạy làm đứt cả cầu phao, ngã xuống sông chết đuối rất nhiều.
Quân ta do tướng Nguyễn Khoái chỉ huy liên tiếp truy kích giặc. Tướng Nguyên là Lý Hằng bị bắn chết. Thoát Hoan, Phàn Tiếp, A-Bát-Xích, Lý Quán cố sức đánh mở đường máu mà chạy.
Bị quân ra đuổi riết, không còn cách nào khác để thoát thân vì thế Thoát Hoan phải chui vào cái ống đồng để lên trên xe bắt quân lính kéo chạy về phía biên giới. Đến gần châu Tư Minh, tưởng đã thoát thân, quân giặc định nghỉ ngơi rồi đi tiếp nào ngờ lại bị Hưng Võ Vương Nghiễn và Hưng Hiếu Vương Úy “giăng rọ” chờ sẵn từ trước, đổ ra đánh.
Lý Quán bị tên bắn chết ngay tại trận, còn Thoát Hoan nhờ có A-Bát-Xích cố chết bảo vệ nên chạy thoát thân về bên kia biên giới.
Với đội quân 60 vạn người, lúc đầu hùng hổ vượt biên giới kéo sang, khí thế oai phong lừng lẫy bao nhiêu thì khi về như con “Cẩu” cụp đuôi, luồn lách, chui lủi tìm đường thoát chạy về nước. Chỉ trong vòng 6 tháng (tháng Chạp, 1284 đến tháng 6-1285, quân dân Đại Việt đã đánh đuổi hơn nửa triệu quân xâm lược ra khỏi bờ cõi. Đó là nhờ vua tôi đồng lòng, toàn dân quyết chí đồng tâm, đồng sức đánh đuổi quân thù để bảo vệ quê hương đất nước.
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiYYljemq-v0Qc8xI22MNF05OdhnK9MRyAVRXv3XiZs8flZTs_fmqHHfuD4drxsmjtOy9KkVShfUn8kbr3HrGii0VMjQvI_rluz_810pAsoFMDkuhMkELZovV5ez9BESHTfRA3JoN6ojx-I/s1600/44_thoathoan.jpg“Xã tắc hai phen chồn ngựa đá/ Non sông ngàn thuở vững âu vàng”
Nhà sử học Ba Tư Ra-xít-út-đin ở thế kỉ 13 đã viết về cuộc kháng chiến oai hùng của người Giao Chỉ (Đại Việt) trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông với những từ sau: “Nước đó có vương quốc riêng, không thần phục Hãn (Vua Mông Cổ), Tu Gan (Thoát Hoan) con trai của Hãn chỉ huy đội quân để ngăn ngừa và chống lại những ai không khuất phục. Một lần Tu Gan đem quân vào nước đó, chiếm lấy các thành thị ven biển và thống trị ở đấy, nhưng bỗng nhiên xuất hiện những đội quân (Giao Chỉ) từ biển, từ rừng, từ núi, đánh tan quân Tu Gan (Thoát Hoan) đang cướp bóc, Tu Gan trốn thoát”.
Trong lúc quân dân Đại Việt hân hoan mừng chiến thắng thì ở bên kia biên giới Hốt Tất Liệt nổi giận vì Thoát Hoan bị thất trận nặng nề. Nóng lòng cần một căn cứ để làm bàn đạp tiến hành xâm lược Đông Nam Á nên vua nhà Nguyên gấp rút cho ngừng việc tấn công Nhật Bản và sai đóng trên 300 chiến thuyền, lệnh cho ba tỉnh Giao Hải - Hồ Quảng – Giang Tây tụ tập quân sĩ định đến tháng 8/1285 thì đem quân theo đường Châu Khâm, Châu Liêm tiến đánh Đại Việt để báo thù.
Rút kinh nghiệm hai lần thất bại trước vì thiếu lương thực, lần này vua Nguyên đặc biệt chú trọng đến việc cho thuyền tải lương đi theo và vạch sách lược tấn công theo lối: “tằm ăn dần dà”.
Trận đánh kinh động cả thế giới của người Việt
Lăng mộ như gò núi của vua Trần ở Thái Bình. 
Biết tin quân Nguyên chuẩn bị lực lượng tấn công Đại Việt, vua Trần hỏi Hưng Đạo Vương: “Thế giặc năm nay thế nào?” Trần Hưng Đạo trả lời: “Năm nay đánh giặc nhàn”. Vua Trần và Trần Quốc Tuấn chia quân chặn địch ở các hướng Lào Cai, Lạng Sơn, Quảng Yên, Vạn Kiếp (Hải Dương) và Long Hưng (Thái Bình).
“Nhà Nguyên phát quân ở 3 sảnh Giao Hoài, Giang Tây, Hồ Quảng. Quân Mông Cổ, quân Hán Nam cùng quân Vân Nam và quân người Lê ở 4 châu ngoài biển chia đường vào cướp. Sai bọn Vạn Hộ Trương Văn Hổ chở 70 vạn hộc lương theo đường biển, lại đặt Chinh Giao Chỉ hành thượng Thư sảnh, cho Áo-lỗ-xích làm Bình Chương Sự, Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp làm tham tri chính sự phụ trách, đều sự tiết chế của Trấn Nam Vương” (ĐVSKTT-Tr.517).Quân Nguyên chiếm núi Phả Lại và núi Chí Linh để lập căn cứ; Trình Bằng Phi đem 2 vạn binh đánh đồn Vạn Kiếp của ta. Ô Mã Nhi và A-bát-Xích dẫn quân từ sông Lục Đầu đánh xuống Hồng Hà.
Hưng Đạo Vương liền rút quân về giữ Thăng Long, nhưng sau bị Ô Mã Nhi bám riết, thượng hoàng và vua Trần Nhân Tông xuống thuyền đi ra cửa biển Thiên Trường. Ô Mã Nhi đem quân đuổi theo nhưng không kịp, liền kéo quân về Long Hưng (Tiến Đức, Hưng Hà, Thái Bình nơi có mộ tổ tiên nhà Trần ở đó). Y cho người đào phá lăng mộ của nhà Trần.
Thoát Hoan đem binh mã vây đánh Thăng Long, chiếm được thành nhưng sau lại phải rút về căn cứ Vạn Kiếp, Chí Linh, Phả Lại. Hưng Đạo Vương cũng tiến quân tới lập trại để chống chọi với giặc.
Ngày Mậu Tuất, 12/12 (17/12/1287) chiến thuyền của bọn Ô Mã Nhi (xuất phát từ cảng Khâm Châu) tiến vào nước ta. Đoàn thuyền vận tải lương thực của Trương Hổ vì chở quá nặng nên bị tụt lại phía sau. Mấy ngày sau thuyền giặc qua cửa biển Vạn Ninh (Móng Cái), đến Ngọc Sơn chúng gặp tướng Nhân Đức Hầu Trần Da phục binh trên núi phục đánh. Chiến thuyền giặc liền vây bọc lại đánh nhau với quân ta và qua được cửa Ngọc Sơn.
Thuyền của Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp tiến vào cửa An Bang (Quảng Yên) giao chiến với thủy quân của tướng Trần Khánh Dư, quân ta bị tổn thất phải rút lui. Ô Mã Nhi sau khi qua được cửa An Bang đã theo sông Bạch Đằng tiến về Vạn Kiếp. Hắn tưởng rằng quân ta bị đánh tan không thể ngăn cản nổi đoàn thuyền lương đi sau nên hắn cứ tiến thẳng không chú ý đến việc bảo vệ cho Trương Văn Hổ.
Khi thủy quân nhà Nguyên đánh Vân Đồn, Hưng Đạo Vương đã trao quyền chỉ huy giải biên thùy cho phó tướng là Trần Khánh Dư. Nghe tin Trần Khánh Dư thua trận, vua Trần liền sai trung sứ đến bắt Khánh Dư đưa về cửa khuyết để trị tội. Khánh Dư nói với Trung sứ rằng: “Lấy quân luật mà xử, tôi xin chịu tội, nhưng xin hoãn cho vài ba ngày, để tôi lập công chuộc tội rồi hãy chịu búa rìu của hoàng thượng cũng chưa muộn”.
Trung sứ nghe theo lời khuyên, Khánh Dư đoán biết quân chủ lực giặc đi rồi, thuyền lương tất phải theo sau, bèn tập hợp số quân còn lại bố trí phục kích chờ giặc tới. Quả nhiên mọi việc diễn ra đúng như dự đoán của vị tướng mưu trí đó.
Tháng 12 âm lịch (2/2/1288) đoàn thuyền chở lương của Trương Hổ kéo vào vùng biển Vân Đồn. Vì chủ quan cho rằng Ô Mã Nhi đi trước đã dọn đường cho mình rồi nên Trương Hổ không đề phòng, bị lọt vào trận địa phục kích của thủy quân ta.
Khi giặc tới, bất giờ thủy quân ta do Trần Khánh Dư ập tới đánh, giặc Nguyên bị thua, Trương Văn Hổ cố gắng tiến về phía đất liền, nhưng đến biển Lục Thủy (Cửa Lục, Hòn Gai) thì thủy quân ta đổ ra đánh càng đông. Trương Văn Hổ đại bại đổ cả lương thực xuống biển, trốn chạy về Quỳnh Châu (Hải Nam). Quân ta “bắt được quân lương khí giới của giặc nhiều không kể xiết, tù binh cũng rất đông” (Toàn thư- Q.5.Tr-53a).
Theo sách Nguyên sử (Trung Quốc – Q.209 – An Nam Truyện – Tr.10a) thì số lương thực mất hơn 14.300 thạch. Con số đó chắc còn xa thực tế vì Trương Văn Hổ chỉ chạy thoát trên một chiếc thuyền nhỏ về Quỳnh Châu. Triều đình đã tha tội cho Trần Khánh Dư.
Trần Quốc Tuấn cho rằng để làm cho quân sĩ địch chóng “ngã lòng, bấy giờ mới dễ phá”. Vì thế quân ta đã thả tù binh, báo tin thuyền lương của Trương Hổ đã bị tiêu diệt cho Thoát Hoan biết. Trước tình hình ở không yên, lương thực lại bị mất, lòng quân dao động, Thoát Hoan buộc phải cố thủ ở Vạn Kiếp”.
Quân Nguyên sau khi đại bại ở Vân Đồn lương thảo ngày càng kiệt quệ, Thoát Hoan muốn cho người về Trung Quốc cầu viện và lấy thêm lương, nhưng Hưng Đạo Vương đã sai người giữ núi Kỳ Cấp và ải Nữ Nhi ở Lạng Sơn chặn bắt những tên thám tử được phái về Trung Quốc.
Cuối cùng biết rằng ở lại chỉ chuốc lấy thất bại, Thoát Hoan quyết định rút quân về nước. Quân Nguyên chia làm hai đường thủy bộ để rút. Đạo quân thủy do Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp chỉ huy theo đường sông Bạch Đằng đi trước. Đạo quân bộ gồm có Trịnh Bằng Phi, Trương Quân được giao chặn hậu để Thoát Hoan cùng A-bát-xích, Áo-lỗi-xích, Trương Ngọc tìm đường rút chạy.
Hưng Đạo Vương đoán biết được âm mưu của giặc, bèn sai tướng Nguyễn Khoái dẫn quân lẻn qua đường tắt lên mé thượng lưu sông Bạch Đằng chặt gỗ, đẽo nhọn đầu, bịt sắt, đóng trên sông rồi đặt phục binh chờ đợi đến lúc thủy triều lên thì đem thuyền ra khiêu chiến.
Tướng quân Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Thế Nghĩa được lệnh dẫn quân lên mai phục ở ải Nội Bàng (thuộc Lạng Sơn) chờ cho quân bộ của Thoát Hoan chạy đến đó thì đổ ra đánh.
Kế hoạch chiến đấu đã được vạch ra, khi được tin Ô Mã Nhi đã kéo quân sắp về đến Bạch Đằng, Hưng Đạo Vương từ căn cứ A Sào (nay thuộc xã An Đồng và An Thái, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình) kéo quân về sông Hóa đi đánh giặc. Con voi chiến của người bị sa lầy khi vượt sông, ứa nước mắt nhìn theo chủ tướng. Hưng Đạo Vương chỉ gươm xuống dòng sông Hóa mà thề rằng: “Trận này chưa phá xong giặc Nguyên thì không về bến sông này nữa”.
Quân sĩ ai nấy đều xin quyết chiến. Đoàn quân nhằm hướng Bạch Đằng Giang thẳng tiến. Khi chiến thuyền của Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp theo dòng Bạch Đằng rút chạy thì bất ngờ tướng Nguyễn Khoái dẫn chiến thuyền từ bờ sông lao ra khiêu chiến.
Ô Mã Nhi tức giận thúc quân xông vào đánh, Nguyễn Khoái liền quay thuyền chạy. Bấy giờ đang lúc thủy triều lên cao, mặt sông rộng mênh mang, Ô Mã Nhi cứ việc thúc thuyền đuổi theo. Nguyễn Khoái nhử cho quân Nguyên qua khỏi chỗ đóng cọc, rồi mới hô quân quay thuyền lại quyết chiến với giặc.
http://static9.nguyentandung.org/files/2012/12/tran-nhat-duat_tnduat.jpgTrận chiến trên sông diễn ra ác liệt, đúng lúc đó đại quân của Hưng Đạo Vương kéo tới tiếp viện cho Nguyễn Khoái. Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp thấy quân tiếp viện rất đông, liền quay thuyền chạy trở lại.
Khi chạy đến khúc sông có cọc đóng thì nước thủy triều đã rút xuống, cọc nhọn nhô lên, thuyền của quân Nguyên húc vào cọc đổ nghiêng, đổ ngửa, phần nhiều bị vỡ và đắm.
Quân ta càng đánh càng hăng quân Nguyên phần bị chết đuối rất nhiều, phần bị trúng tên, giáo mác, máu chảy loang đỏ cả khúc sông. Quân ta bắt được hơn 400 chiến thuyền giặc. Nội Minh Tự Đỗ Hành bắt được Ô Mã Nhi, Tích Lệ Cơ Ngọc. Các tướng khác như Phàn Tiếp cũng bị bắt sống tại trận.
Trận Bạch Đằng Giang diễn ra vào tháng 3 năm Mậu Tý (1288), mãi mãi là niềm tự hào về tài dùng binh và tinh thần chiến đấu dũng cảm của tướng lĩnh và binh sĩ cùng nhân dân thời Trần trong đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc. Tin thủy quân bị đánh tan, Ô Mã Nhi cùng các tướng bị bắt đã nhanh chóng được chuyển cho Thoát Hoan. Quá hoảng sợ, toán quân đi đường bộ theo lệnh của Thoát Hoan vội rút chạy. Khi về đến ải Nội Bàng, bỗng bị quân phục của Phạm Ngũ Lão đổ ra đánh. Các tướng nguyên liều chết bảo vệ Thoát Hoan, chúng vừa đánh vừa chạy. Tướng Nguyên là Trương Quân dẫn 3000 lính đi đoạn hậu cố sức chặn quân truy đuổi của ta, nhưng y đã bị Phạm Ngũ Lão chém chết. Thoát Hoan chạy thoát được ra cửa ải, quân sĩ 10 phần chỉ còn lại 5, 6 phần.
Đại quân của Thoát Hoan đang đi, bỗng có tin báo từ cửa ải Nữ Nhi đến núi Kỳ Cấp (hơn 100 dặm), chỗ nào cũng có đồn ải của quân Đại Việt. Nghe tin ấy, quân sĩ nhà Nguyên đều xôn xao sợ hãi, ở phía sau lại nghe tiếng ầm ầm của quan quân đuổi theo.
Thoát Hoan vội sai A-bát-xích, Trương Ngọc dẫn quân đi trước mở đường, Áo-lỗi-xích đi đoạn hậu. Trên đường tháo chạy về nước hai viên tướng Nguyên là A-bát-xích và Trương Ngọc đã bị quân phục kích của ta bắn chết. Trình Bằng Phi liều mạng sống đưa Thoát Hoan chạy ra Đan Kỳ, qua Lộc Châu rồi lén lút theo đường rừng chui lủi chạy thoát về châu Tư Minh (Trung Quốc).
Đất nước sạch bóng quân xâm luợc: “Hai vua trở về phủ Long Hưng (Thái Bình) đem các bại tướng của giặc bị bắt là Tích Lệ Cơ Ngọc và Ô Mã Nhi, Tham Chính Sầm Đoại, Phàn Tiếp... cùng với các viên tướng vạn hộ, thiên hộ làm lễ dâng mừng thắng trận ở Chiêu Lăng (Tiến Đức – Hưng Hà – Thái Bình).
Trước đó quân Nguyên đã đào Chiêu Lăng, muốn phá đi nhưng không xâm phạm được đến quan tài. Đến khi giặc bị thua, chân ngựa đá ở lăng đều bị lấm bùn. Đó là do thần linh ngầm giúp vậy.
http://d4.violet.vn/uploads/blogs/747217/untitled.jpgVua làm lễ yết có câu thơ rằng: “Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã/ Sơn hà thiên cổ điện kim âu, (Xã tắc hai phen chồn ngựa đá/ Non sông nghìn thuở vững âu vàng).
Không đầy 5 tháng, quân dân ta đã tiêu diệt 30 vạn quân Nguyên, đánh bại cuộc xâm lược lần thứ ba và cũng là lần cuối cùng của chúng đối với Đại Việt. Không những thế, còn ngăn chặn được âm mưu bành trướng của đế quốc Nguyên Mông định tấn công xuống Đông Nam Châu Á và tấn công cả Nhật Bản.
Vì bị hao binh tổn tướng, lại không chiếm được Đại Việt nên âm mưu trên đã bị hủy bỏ. Chiến công ba lần thắng Nguyên Mông của dân tộc ta mãi mãi là niềm tự hào của các thế hệ con dân nước Đại Việt xưa và nước Việt Nam ngày nay trong sự nghiệp bảo vệ non sông gấm vóc của tổ tiên để lại.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét