Thứ Sáu, 27 tháng 12, 2013

Bài viết hay(761)

Thiến!
Khi tôi còn bé, những buổi trưa ở thôn quê thật buồn. Chỉ có nắng ngùn ngụt như bốc khói. Và gió, những cơn gió hừng hực đuổi lũ rơm rạ cuống quít chạy trốn trên đường làng. Cái tiếng gà trưa lúc này nghe ra đúng là thật não nùng. Mà cái tiếng của một ông thợ hoạn lại càng não nùng bi thiết hơn!
- He…o thiến hôn?
Âm heo kéo dài tưởng chừng lê lết bỗng đột ngột vút lên cái âm thiến sắc nhọn như lưỡi dao của ông. Lũ heo trong chuồng mà nghe và hiểu được như người chắc là sợ chết khiếp.
Thế rồi đâu đó có tiếng chủ nhà: ông thiến ơi, vào đây!
Những con bị thiến là heo cái chừng hơn một tháng tuổi. Cô ả bị người thợ hoạn treo ngược lên, rạch một đường bên hông, đưa mấy ngón tay mò mẫm rồi lôi ra một chút thịt sống đẫm máu gọi là hoa sung. Sau đó là may với kim thiến heo thật to, không bôi thuốc đỏ mà bôi lọ nghẹ trộn với lá dâm bụt. Cô ả được thả vào chuồng, được chăm chút, chỉ ăn rồi ngủ, để rồi sáu tháng sau hoặc hơn, lại được treo ngược lên một lần nữa, lần này không phải ông thợ hoạn mà là anh đồ tể.
Cái tiếng ụt ịt nũng nịu thầm thì bấy lâu bỗng đổi thành cái tiếng ét chói tai như con tàu kéo hồi còi vĩnh biệt.
Gà, chỉ có gà trống mới thiến. Một khi hai hòn dái dấu kín trong bụng được lấy ra, anh không thèm gáy, không thèm đá lộn, đương nhiên không thèm túc túc cù rủ và nhường con trùn hay con dế cho các chị gà mái nữa, chỉ ăn toàn bắp ngâm nước cho mềm ra để tạo mỡ. Cuối tháng chạp, anh được nhốt trong một chiếc lồng hình con vịt, được các chàng trai khúm núm đem đi tết bố mẹ vợ sắp cưới. Để rồi sau đó anh nằm bảnh chọe trên một chiếc đĩa to kềnh mỡ vàng tươm ai thấy cũng thèm!
Chó bị thiến cũng là chó đực. Thiến để anh không đi tơ, để đêm ngày nằm gác mỏm trên thềm nhà canh giữ sự an nguy cho chủ. Vì sợ hai hàm răng trắng nhỡn có thể ngoạm vào bất cứ ai trong cơn hốt hoảng, nên người ta vuốt ve cho anh ngúc ngoắc đuôi ngoan ngoản rồi bất ngờ úp một cái cối giã gạo lên đầu anh. Thế là hai hòn dái quý báu của anh cứ việc phơi ra cho người ta xẻo một nhát đi đứt. Khi được thả ra, anh chạy biến, trốn vào một bụi rậm, nằm liếm mãi cái vết thương cho đến khi khô máu mới dám thập thò trở về nhà. Anh được chủ yêu hơn, cưng chiều hơn, trở thành một thành viên tận tụy của gia đình, đến lúc già chết được đeo mấy đồng tiền vào cổ để đi đò qua sông Mịch La.
Với con người, ba tiếng đau như hoạn nhất định là thống thiết hơn cái tiếng ét hay tiếng ẳng. Đó là nỗi đau không được làm đàn ông, không được truyền giống, đau vì những người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ.
Còn hơn đau, đó là nỗi nhục.
Trong cổ kim, chỉ có một người biến nỗi nhục đó thành vinh, là Tư Mã Thiên. Bị kết tội chết vì bênh vực Lý Lăng, không có tiền chuộc mạng, ông đành nghiến răng chịu thiến. Không đẻ được con bằng xương bằng thịt, ông dành cả đời để đẻ ra đứa con tinh thần bất tử là bộ sử ký vĩ đại của nước Trung Hoa cổ đại.
Nhưng cũng có nhiều kẻ chịu đau chịu nhục chỉ để để trở thành hoạn quan.
Carter Stent miêu tả về việc cát thể (hoạn) ở Trung Hoa cuối đời Mãn Thanh như sau:Trước khi cát thể, người có ý định trở thành thái giám được đặt nằm nghiêng trên một cái giường thấp và được hỏi lần cuối cùng có hối hận gì khi bị thiến hay không. Nếu người đó trả lời không thì một người sẽ giữ chặt bụng người đó, hai người khác banh hai chân ra giữ cho khỏi cục cựa. Băng vải được quấn chặt ở bụng dưới và hai đùi và bệnh nhân được cho uống một thang thuốc mê (ma phế thang), bộ phận sinh dục của y được chà xát bằng nước ngâm ớt. Cả dương vật lẫn dịch hoàn được cắt xoẹt bằng một nhát dao sát tận đáy, một nút bằng kim loại cắm ngay vào lỗ sinh thực khí và vết thương được băng chặt bằng giấy bản, bên ngoài quấn vải thật chặt.Người thái giám lập tức được những "đao tử tượng" dìu đi quanh phòng trong hai ba giờ liền trước khi được quyền nằm nghỉ. Người đó vừa đau đớn, vừa khát nước nhưng không được ăn uống và tiểu tiện trong ba ngày. Sau ba ngày, vải băng được cởi ra và cái nút được rút ra và nếu bệnh nhân có thể đi tiểu được ngay thì vụ giải phẫu thành công và qua được thời kỳ nguy hiểm. Nếu người thái giám không tiểu tiện được có nghĩa là đường sinh thực khí đã bị thu hẹp hay bịt kín và chỉ còn đường chờ chết.Có gia đình chuẩn bị việc cho con mình tương lai sẽ làm thái giám tử khi còn nhỏ. Một bà vú (bảo mẫu) thuê để đặc biệt chăm sóc cho đứa trẻ ngay từ khi còn nằm trong nôi. Bà vú này có một thủ thuật riêng, mỗi ngày ba lần nắn bóp dịch hoàn đứa trẻ khiến đứa bé đau đến khóc thét lên. Lực bóp cũng tăng thêm và cơ quan sinh dục của đứa bé dần dần bị hủy hoại. Khi lớn lên không những mất khả năng sinh dục mà dương vật còn teo dần khiến đứa trẻ có nhiều nữ tính, không có yết hầu, hai vú nhô cao, mông nở, giọng nói lanh lảnh, dáng điệu ẻo lả và trở thành "ái nam, ái nữ".
Kinh hoàng như thế nhưng nhiều người vẫn xâm mình chịu trận, đủ biết cái bả vinh hoa nó có một hấp lực còn mạnh hơn cái bản năng gốc đã được tạo hóa cài đặt từ trong bụng mẹ.
Từ khi có chế độ cộng sản thì cái nước Tàu mênh mông không còn tiếp diễn cái cảnh man rợ đó nữa. Nhưng để được đứng dưới ngọn cờ của đảng, có biết bao người đã "tự hoạn". Hai tiếng đồng chí hết sức trung thành đã thay cho hai tiếng hoạn quan. Họ không chỉ phục dịch mỗi hoàng đế Mao Trạch Đông mà cả trăm cả ngàn ông hoàng bà chúa bé hơn ở Trung Nam Hải.
Nước Nga đâu khác gì.
Bắc Triều Tiên cũng vậy.
Thì thôi, đành một nhẽ. Dẫu sao họ cũng tự thiến chứ không phải bị đè ra thiến.
Ở xứ ta, từ khi có người gọi đích danh tự do là cái con cặc, thì cả nước bỗng ngớ ra bởi vì, sao trông nó buồn thiu ỉu xìu đến như vậy. Hóa ra nó đã bị thiến tự bao giờ! Cho dù không bị treo ngược lên như heo hay úp một cái cối giã gạo lên đầu, nhưng hơn nửa thế kỷ nay, từ khi vào mẫu giáo, nó đã bị bóp cho nát bét ra cái tư tưởng tự do như hai cái dịch hoàn, thì còn đâu khí thế mà vùng lên được.
Cho nên dẫu có muốn ngồi nhìn hòn dái đâm đinh như nghệ sĩ Pyotr Pavlensky trình diễn Fixation bằng cách đóng đinh bìu dái mình trên quảng trường Đỏ cũng không còn dái đâu mà đóng.
Ô hô, cả nước bị thiến! Đúng là đau như hoạn!
Khuất Đẩu - 17/11/2013 
Ước mơ hộ chiếu
Có lẽ vì tôi đi hơi nhiều, nay đây mai đó, nên một số người thường hỏi tôi: thế anh mang quốc tịch gì?
Nói theo luật và chiếu theo luật thì tôi là người có ba quốc tịch: Úc, Mỹ và Việt Nam. Úc vì tôi lớn lên ở Úc từ năm 14 tuổi nên đã có passport sau 3 năm định cư ở đó. Mỹ vì tôi sang định cư ở Mỹ vào năm 2005 và mặc dù hiện nay chỉ đi đi về về nhưng tôi đã vào quốc tịch từ năm ngoái.
Riêng Việt Nam, không những tôi đã được cấp passport mà theo Bộ luật Công dân hiện hành thì tôi vẫn được xem như là một công dân của Việt Nam cho đến khi, nếu muốn từ bỏ quốc tịch, tôi phải viết thư cho Chủ tịch nước và đơn xin được chấp thuận.
Vậy mà lần nào vào Việt Nam tôi cũng phải xin visa. Và ngay cả khi có visa trong tay đã được cấp sau khi trả lệ phí 90 đô tại toà đại sứ Việt Nam ở Washington DC thì tôi vẫn không được cho vào Việt Nam. Ngay tại phi trường Tân Sơn Nhất cách đây 5 năm về trước. Đó cũng là lần cuối cùng tôi đặt chân về lại nơi sinh ra mình.
Tôi được cấp passport Việt Nam vì vào đầu năm 1985, ba tôi đã bảo lãnh chính thức mẹ và các chị em tôi sang Úc sinh sống. Lẽ ra nếu chiếu theo luật hiện hành của Việt Nam thì tôi phải tiếp tục được cấp hộ chiếu Việt Nam nay đã hết hạn. Và việc trở về Việt Nam lẽ ra không cần phải xin visa, là một đặc quyền như tất cả mọi công dân khác. Chứ không như bây giờ, phải xin, được cấp visa và sau đó thông qua một cửa ải khác (mà không một ai thông báo trước) thì mới được cho vào để thăm ông bà, bè bạn.
Mà nghĩ lại thấy cũng lạ. Nghịch lý này đâu chỉ xảy ra với riêng tôi mà nó được áp dụng với tất cả mọi công dân Việt Nam đang sinh sống và định cư ở nước ngoài. Nghe nói đâu lên đến hơn 3 triệu người. Hơn 3% dân số Việt Nam.
Vậy mà tôi chẳng thấy có ai nêu lên vấn đề này. Từ Đảng cho đến dân. Để cuối cùng ai cũng a lê hấp tuân thủ chính sách của Đảng, móc tiền túi trả cho Đảng, để về được Việt Nam. Để đọc được nhan nhản ở mọi nơi Đảng đang quyết tâm thực hiện một nhà nước pháp quyền đến ngần nào.
Thế mới lạ.
Nói như thế không có nghĩa là tôi đang có ý phàn nàn về việc tôi có hai, ba quốc tịch. Tôi cảm thấy rất may mắn là đằng khác. Mặc dù dĩ nhiên ước mơ của tôi là trong tương lai tôi sẽ sớm có dịp về sinh sống tại nơi sinh ra mình, nhưng hiện tại tôi vẫn cảm thấy rất hạnh phúc với cuộc sống và công việc mà tôi đang chọn.
Có hai quốc tịch Úc, Mỹ có nghĩa là phần lớn đi đến nơi nào trên thế giới, tôi cũng được chính quyền sở tại đối xử một cách văn minh hơn và tuyệt đại đa số các nước đều không buộc tôi phải xin visa trước cũng như ít khi tôi bị tra hỏi tại cửa khẩu qua nước họ để làm gì.
Không phải ai cũng có may mắn đó. Và thực tế hơn, không phải ai có tiền cũng có thể đến được một đất nước khác để thăm viếng mà không bị làm khó dễ. Nhất là đối với những công dân Việt Nam chỉ cầm trên tay độc nhất một passport Việt Nam.
Ngoại trừ 10 nước thành viên của ASEAN (trong đó có Việt Nam) không đòi hỏi công dân của họ phải có visa trước khi đi du lịch sang các nước thành viên khác, phần lớn các nước khác đều có những quy định khắt khe trong việc cấp visa cho công dân Việt Nam. Đặc biệt là các nước Mỹ, Úc, Canada.
Ngoài những thủ tục thường lệ như điền đơn, trả lệ phí, xin hẹn gặp phỏng vấn, các công dân Việt Nam còn phải chứng minh cho thấy họ sẽ trở về Việt Nam sau khi đi du lịch xong. Bất kể công việc của họ có sáng sủa hay cả gia đình vẫn đang ở Việt Nam hay không. Hay nhà cửa, tài sản họ có nhiều đến độ nào. Tôi biết mỗi ngày có rất nhiều đơn xin visa du lịch bị các toà đại sứ bác mặc dù người nộp đơn hoàn toàn không có ý định ở lại.
Cái khổ chỉ vì họ cầm trên tay hộ chiếu Việt Nam.
Bởi thế tôi chỉ có ước mơ thế này. Đó là trong một ngày không xa, tôi sẽ được cấp lại hộ chiếu Việt Nam. Và như mọi công dân Việt Nam khác, không cần hộ chiếu Úc, Mỹ, chúng ta sẽ dễ dàng đến được những nước khác. Để thăm viếng. Để học hỏi. Mà không bị cấm xuất, nhập cảnh như bây giờ. Hay bị tra hỏi hoặc từ chối thẳng thừng không cấp visa như hiện tại.
Chắc lúc đó cả tôi lẫn bạn đều sẽ hãnh diện mình là người Việt Nam lắm, có phải không?
Trịnh Hội  
Từ một đề kiểm tra 'khác biệt'
Tại Đức, ngay từ đề kiểm tra của học sinh lớp 7, học sinh đã được dạy về nghĩa vụ, quyền lợi, pháp luật.
Phòng và chống Trong những năm qua, chúng ta đi hết từ bàng hoàng này đến bàng hoàng khác khi chứng kiến những vụ bạo hành trẻ em, khi thấy thói vô cảm trở thành "căn bệnh" hiểm nghèo của xã hội. Gần đây nhất là vụ hành hạ trẻ mầm non ở Sài Gòn hay vụ "hôi" bia ở Biên Hòa.
Dư luận nói chung là rất phẫn nộ, đòi xử lý nghiêm minh, và đó là một phản ứng tích cực để xây dựng một xã hội văn minh. Tuy nhiên, những bản án nghiêm khắc chủ yếu chữa về "triệu chứng", chứ không có nhiều tác dụng trong phòng chống, ngăn chặn "căn bệnh" bạo hành.
Trong một xã hội hiện đại, tại sao một người ra đường có thể bị đánh bất cứ lúc nào chỉ vì dám/ lỡ "nhìn đểu", vì lỡ... đẹp trai hơn người khác! Tại sao một người mua hàng có thể bị chửi, mắng, đánh đập, đe dọa, bị những thứ không thể lường trước, như đã chạm vào hàng rồi mà không mua.
Tại sao một "cô giáo" mới mười tám, đôi mươi và một cô khác thậm chí đã có bằng đại học lại có thể hành hạ những em bé một cách vô cảm? Tại sao của cải của những nạn nhân bị tai nạn, bị cướp giật lại bị chính những người dân đáng ra phải giúp đỡ thì lại quay ra xâu xé? Tại sao?
Bạo hành luôn có "cơ hội" ở bất cứ đâu, trong gia đình, nhà trường, cộng đồng... Nạn bạo hành, mà nạn nhân chủ yếu là phụ nữ và trẻ em, là một vấn nạn xảy ra ở mọi quốc gia, nền văn hóa, không ngoại lệ giàu nghèo, trình độ học vấn.
Song rõ ràng, kỹ năng sống và sự hiểu biết về quyền lợi, luật pháp của công dân trong một xã hội càng cao thì mức độ, phạm vi của nạn bạo hành càng thấp. Mặt khác, sự tồn tại của nạn bạo hành phụ thuộc khá nhiều vào các yếu tố như:
- Ý thức, trách nhiệm của xã hội về nạn bạo hành. Ví dụ: Phải tăng cường nhận thức không coi nạn bạo hành là "chuyện riêng" chừng nào chưa động chạm đến mình, mà là một vấn nạn của toàn xã hội cần giải quyết.
- Vào luật pháp và sự công minh của luật pháp, trong đó rất quan trọng là trách nhiệm của người lãnh đạo, cơ quan công quyền trong việc phát hiện, xử lý nạn bạo hành.
Từ những bình diện trên, câu hỏi đặt ra là làm thế nào để "phòng ngừa" nạn bạo hành trước khi chúng xảy ra, chứ không phải "chữa trị" khi sự đã rồi. Trả lời câu hỏi này có lẽ cần bắt đầu từ giáo dục.
Mỗi đứa trẻ, ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường, càng sớm càng tốt, cần được: Huấn luyện kỹ năng sống để biết lắng nghe - phát biểu - đối thoại - ứng xử - phản biện...; Tìm hiểu về pháp luật để có những hiểu biết nhất định về quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi cá thể trong một cộng đồng; Khuyến khích, hỗ trợ thực hiện những quyền lợi nghĩa vụ ấy với tinh thần thượng tôn pháp luật,
Trang bị tốt những điều trên sẽ tạo cho trẻ nhiều cơ hội trở thành những công dân vừa có sự tự tin bảo vệ chính kiến, bản lĩnh cá nhân của mình, giữ "cái tôi", không a dua theo tâm lý bầy đàn, không bắt chiếc cái xấu, vừa có thể hòa nhập cộng đồng xã hội, biết cách "đối nhân, xử thế" trên tinh thần tôn trọng mọi người và sau nữa, biết bảo vệ mình, bảo vệ lẽ phải bằng pháp luật.

Vụ bạo hành tại Cơ sở mầm non Phương Anh gây chấn động dư luận. Ảnh: Tuổi trẻ
Cách giáo dục của nước Đức Dưới đây là một phần bài kiểm tra môn Chính trị - Kinh tế của học sinh lớp 7 tại một trường PTTH tại Đức. Người viết bài này cũng như những ông bố, bà mẹ khác ở đây có trách nhiệm xem và ký vào những bài kiểm tra như thế này của con mình. Chúng ta có thể tham khảo phương pháp tiếp cận, phương pháp giáo dục quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi cá thể trong một cộng đồng cho trẻ em ở đây ra sao:
Câu hỏi 1- Giải thích tại sao khái niệm "vòng luẩn quẩn" được đưa ra để nói về tình trạng trẻ em nghèo ở Đức?
Trả lời: Khái niệm "vòng luẩn quẩn" mô tả mối quan hệ của nhiều yếu tố, tác động qua lại lẫn nhau, mang tính tiêu cực (ban đầu dù rất nhỏ nhưng sau đó tiếp tục phát triển, để lại hậu quả, khó có thể dừng lại, trở thành hệ thống). Khái niệm này được đưa ra để biểu thị những hệ lụy từ cuộc sống khó khăn của trẻ em nghèo.
Thí dụ: Khi một bố mẹ không đủ khả năng tài chính để trang trải mọi chi phí - điều đó dẫn đến: con cái sẽ bị thiếu thốn, không đủ điều kiện ăn học, phải đứng "ngoài rìa" xã hội - (có thể phát sinh tâm trạng chán chường, trầm cảm) - khó có thể học tốt - dẫn đến thiếu kiến thức - và sau đó rất khó có nghề nghiệp vững vàng - dễ lâm vào thất nghiệp - cuối cùng lại giống như bố mẹ, phải sống trong nghèo khó...
Câu hỏi 2- Người cha tức giận cô con gái Sonia và đã đánh cô bé. Hình phạt này của người cha có được cho phép? Hãy trình bày lý do!
Trả lời: Hình phạt này bị cấm, không được chấp nhận. Theo điều 1626 Bộ luật dân sự (tại Đức): cha mẹ có trách nhiệm giáo dục để con cái có tính tự giác và lòng tự tin. Những gì người cha đã làm là phản tác dụng.
Điều 1631 quy định: trẻ em cần phải được giáo dục bằng tình thương và không được sử dụng bạo lực. Điều 1666 cũng viết: trẻ em phải được bảo vệ để tránh nguy hại và không bị lạm dụng. Vì vậy người cha phải từ bỏ cách giáo dục "bằng tay" của mình!!!...
Đó là cách người ta dạy trẻ em về quyền lợi và nghĩa vụ ở đây. Rất cụ thể, họ luôn dạy để "học đi đôi với hành" và không né tránh thực tế. Chẳng hạn vấn đề trẻ em nghèo trong đề thi. Mặc dù nếu so sánh với trẻ em nghèo ở các nước khác, ngay cả ở Tây Âu, gia đình nghèo ở Đức có điều kiện tốt hơn nhiều. Vì hiện nay ngoài những hỗ trợ, miễn phí cho việc học hành, đào tạo nghề nghiệp, họ còn được nhà nước lo cho toàn bộ chi phí về ăn uống, nhà ở, bảo hiểm y tế, thuốc men.
Người Đức chú trọng giáo dục nhân cách, kỹ năng sống ngay từ những năm đầu đi học cho học sinh. Quyền lợi và trách nhiệm của mỗi cá nhân không chỉ được tuyên truyền, hô hào chung chung, bằng những bài học cũng rất chung chung. Các em còn được hướng dẫn, chỉ ra bằng những điều luật cụ thể, để biết rằng, các em cũng như bất cứ người dân nào cũng được pháp luật bảo vệ công bằng, những người vi phạm pháp luật sẽ bị trừng trị và pháp luật là tối thượng.
Có thể nói, giáo dục nhân cách, kỹ năng sống, và cung cấp những kiến thức luật pháp căn bản liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của trẻ em cho học sinh ngay từ giáo dục phổ thông là một yêu cầu rất bức thiết, không thể chậm trễ. Bằng cách đó, chúng ta không chỉ góp phần ngăn chặn việc những đứa trẻ khi lớn lên bị cuốn vào "vòng luẩn quẩn" của bạo lực, bạo hành mà còn giúp bồi đắp nên những thế hệ công dân có ý thức tôn trọng pháp luật, biết bảo vệ lẽ phải và công bằng xã hội.
Trương Anh Tú (từ CHLB Đức)
Hôi của & cướp của
Ban ngày soi đuốc để tìm Một người tử tế mà tìm không ra Chủ nghĩa xã hội nước ta, Thật là tốt đẹp sinh ra lớp người Hễ trông thấy của là hôi. - Hà Long
Ngày 5 tháng 12 năm 2013, đài truyền hình VTC News buồn bã loan tin: Hôm qua, tại TP Biên Hòa – Đồng Nai, khi chiếc xe tải chở bia bị lật, người dân đã túa ra tranh cướp bia, thậm chí còn lấy cả xe ba gác đến để chở bia về nhà mặc cho tài xế van xin.
Tình trạng hôi của trong tai nạn đang diễn ra ngày càng phổ biến. Đã có nhiều lần, khi chiếc xe khách bị nạn, thay vì cứu nạn nhân, nhiều người dân đã lao vào tranh cướp tài sản của những nạn nhân đang hấp hối. Hành vi này được xem là mọi rợ trong một thế giới văn minh.
Báo Tuổi Trẻ Online cho biết thêm chi tiết: Những người “hôi của” tranh nhau giành giật các thùng bia còn nguyên bị rớt xuống đường và thu gom các lon bia văng ra khỏi thùng. Trong đó, nhiều người lấy cả những thùng bia còn nguyên vẹn, một số người thì lấy túi đựng số lon bia lẻ...


Ảnh cắt từ clip do bạn đọc cung cấp. Nguồn: Tuổi Trẻ Online
Hình ảnh thiên hạ nhặt nhạnh những lon bia rơi vãi khiến tôi chợt thấy có chút gì ái ngại, và không khỏi liên tưởng đến cảnh những anh bộ đội với con búp bế cầm tay, hay cái khung xe đạp vác vai - sau ngày “cách mạng tiếp quản” miền Nam. Vùng đất này, khi thất thủ, không chỉ mất đi vài con búp bê hay mấy cái khung xe đạp.
- Những gì mà Cách mạng lấy được của “nhà giàu” trên toàn miền Nam được liệt kê: “Về tiền mặt ta thu được 918,4 triệu đồng tiền miền Nam; 134.578 Mỹ Kim [trong đó có 55.370 USD gửi ở ngân hàng]; 61.121 đồng tiền miền Bắc; 1.200 đồng phrăng (tiền Pháp)...; vàng: 7.691 lượng; hạt xoàn: 4.040 hột; kim cương: 40 hột; cẩm thạch: 97 hột; nữ trang: 167 thứ; đồng hồ các loại: 701 cái. Trong các kho tàng ta thu được: 60 nghìn tấn phân; 8.000 tấn hóa chất; 3 triệu mét vải; 229 tấn nhôm; 2.500 tấn sắt vụn; 1.295 cặp vỏ ruột xe; 27.460 bao xi măng; 644 ô tô; 2 cao ốc; 96.604 chai rượu; 13.500 ký trà; 1000 máy cole; 20 tấn bánh qui; 24 tấn bơ; 2.000 kiếng đeo mắt; 457 căn nhà phố; 4 trại gà khoảng 30.000 con và một trại gà giá 800 triệu; 4.150 con heo; 10 con bò, 1.475.000 USD thiết bị tiêu dùng; 19 công ty; 6 kho; 65 xí nghiệp sản xuất; 4 rạp hát; 1 đồn điền cà phê, nho, táo rộng 170 hecta ở Đà Lạt” (Huy Đức. Bên Thắng Cuộc, tập I. OsinBook, Westminster, CA: 2013).
- “Tại Sài Gòn, 28.787 hộ tư sản bị cải tạo, phần lớn bị “đánh” ngay trong bốn ngày đầu với 6.129 hộ “tư sản thương nghiệp”, 13.923 hộ “trung thương”. Những tháng sau đó có thêm 835 “con phe”, 3.300 “tiểu thương ba ngành hàng”, 4.600 “tiểu thương và trung thương chợ trời” bị truy quét tiếp. Theo ông Huỳnh Bửu Sơn, người trông coi kho vàng của Ngân hàng, trong đợt đánh tư sản này, Cách mạng thu thêm khoảng hơn năm tấn vàng, chưa kể hạt xoàn và các loại đá quý. Có những gia đình tư sản giấu vàng không kỹ, lực lượng cải tạo tìm được, khui ra, vàng chất đầy trên chiếu.” (Sđd, trang 90).
Nhân nói về vàng, tưởng cũng nên nhắc đến 16 tấn vàng đã không cách mà bay từ Ngân Hàng Quốc Gia của chính quyền miền Nam. Sự kiện này nếu không thể gọi là “hôi của” thì e cũng khó có từ ngữ nào thích hợp hơn, ngoài hai chữ... cướp của. Vàng còn “bay” mà từ túi của từng người dân không may, trong cơn quốc biến. Chỉ riêng về số lượng bị coi như là thất thu (vì cán bộ thu nhưng không trình) đã được ghi nhận như sau, tại một số những địa phương có tổ chức vượt biên chính thức – bán bãi thu vàng - hồi cuối thập niên 1970:
Hậu Giang, 4.866 lượng; Minh Hải, 48.195 lượng; Bến Tre, 3.789 lượng; Cửu Long, 27.000 lượng; Nghĩa Bình, 27.000 lượng; Phú Khánh, 10.987 lượng; Thuận Hải, 1.220 lượng; An Giang, 1.445 lượng”. (Sđd, trang 129).
Trong hoàn cảnh phải bỏ của chạy lấy người của hàng triệu người dân Việt thì cùng với chuyện “chung vàng,” họ còn phải “hiến xe,” “hiến hãng xưởng,” “hiến nhà cửa” cho “cách mạng.” Những kẻ đã nhận, và sống trong những căn nhà này, nên gọi họ là bọn “hôi của” hay “cướp của”?
Và những vụ cướp ngày (trắng trợn) tương tự đâu phải chờ đến năm 1975 mới xảy ra, ở miền Nam:
Năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho tiến hành “cải tạo xã hội chủ nghĩa” trên toàn miền Bắc, các nhà tư sản Việt Nam buộc phải giao nhà máy, cơ sở kinh doanh cho Nhà nước. Bà Trịnh Văn Bô lại được kêu gọi “làm gương”, đưa xưởng dệt của bà vào “công tư hợp doanh”. Bà Bô cùng các nhà tư sản được cho học tập để nhận rõ, tài sản mà họ có được là do bóc lột, bây giờ Chính phủ nhân đạo cho làm phó giám đốc trong các nhà máy, xí nghiệp của mình. Không chỉ riêng bà Bô, các nhà tư sản từng nuôi Việt Minh như chủ hãng nước mắm Cát Hải, chủ hãng dệt Cự Doanh cũng chấp nhận hợp doanh và làm phó...
Cả gia đình ông Trịnh Văn Bô, sau khi về Hà Nội đã phải ở nhà thuê. Năm 1954, Thiếu tướng Hoàng Văn Thái có làm giấy mượn căn nhà số 34 Hoàng Diệu của ông với thời hạn 2 năm. Nhưng cho đến khi ông Trịnh Văn Bô qua đời, gia đình ông vẫn không đòi lại được.
Câu chuyện của gia đình Trịnh Văn Bô cũng chưa cay đắng bằng gia đình bà Nguyễn Thị Năm, nổi tiếng với tên gọi Cát Hanh Long, một nhà tư sản vào hàng nhất nhì miền Bắc. Cũng như nhiều nhà tư sản khác, ba mẹ con bà Nguyễn Thị Năm đã hăm hở ủng hộ phong trào Việt Minh từ tháng 5-1945. Bà đã từng vận động bạn bè và tự mình mua tín phiếu Việt Minh, mua vải đỏ, vải vàng may cờ đỏ sao vàng, ủng hộ tiền, gửi thuốc men, thóc gạo, dụng cụ ấn loát lên Chiến khu Việt Bắc...
Ở Thái nguyên, bà Năm tích cực tham gia công tác phụ nữ và được bầu làm Hội trưởng Phụ nữ tỉnh Thái Nguyên và là Ủy viên Liên khu Hội Phụ nữ. Thế nhưng, khi cải cách ruộng đất, bà Nguyễn Thị Năm bị quy là địa chủ và bị gán tội “Việt gian – Quốc dân Đảng” rồi trở thành một trong những địa chủ đầu tiên bị xử bắn. (Sđd, tập II, trang 204 - 206).
Ít nhất thì người dân Biên Hòa cũng đã không bắn giết ai, sau khi “hôi” những lon bia rơi vãi đầy đường. Khi hối hả thu nhặt “chiến lợi phẩm,” họ có thể dẵm lên những lon bia dập nát nhưng chắc chắn là đã không dẵm lên những xác người (chết hàng loạt vì tầu bị đánh đắm ngay khi vừa nhổ neo) để moi vàng trong thi thể của kẻ vượt biên xấu số - theo như lời tường thuật của thuyền trưởng tầu CSG92, C/N 2009/09.
Không những thế, bốn ngày sau, hôm 8 tháng 12 năm 2013, địa phương này đã có người dựng lên một tấm băng rôn, với dòng chữ như sau: “Là người Biên Hòa, là người Việt Nam tôi thấy xấu hổ cho những ai đã “cướp vài lon bia” ở đây trưa ngày 4.12”


Ảnh: Dân Trí
Báo Dân Trí ghi nhận: “Đây là một lời xin lỗi chung cho cả cộng đồng, một sự thể hiện tinh thần trách nhiệm với xã hội, một sự đánh thức lòng tự trọng cho mọi công dân.”
Bao giờ thì dân Việt sẽ nhận được “một lời xin lỗi chung” tương tự, từ giới lãnh đạo của ĐCSVN, sau khi họ đã thực hiện hàng trăm ngàn vụ hôi của (và cướp của giết người) ở xứ sở này?
Theo Luật sư Triệu Trung Dũng, Trưởng Văn phòng luật Triệu Dũng và cộng sự, Đoàn Luật sư TP Hà Nội thì hững hành vi công nhiên chiếm đoạt tài của những người dân “hôi của” sẽ bị khởi tố hình sự theo quy định tại điều 137 Bộ luật Hình sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009.
Điều 137, Bộ Luật Hình sự Việt Nam sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định:
Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
1. Người nào công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Hành hung để tẩu thoát; b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; c) Tái phạm nguy hiểm; d) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
Ông Dũng này khiên tôi nhớ đến câu nói để đời của một vị luật sư khác, tăm tiếng (và tai tiếng) hơn nhiều bà Ngô Bá Thành: “Ở Việt Nam ta đã có cả một rừng luật nhưng khi xét xử lại dùng luật rừng!”
Điều quan trọng nhất về giáo dục
Albert Einstein là một khoa học gia và triết gia của thế kỷ 20. Trong thế kỷ đó tên ông đồng nghĩa với thiên tài. Sinh thời ông cũng từng là giáo sư đại học, thể hiện mối quan tâm đến việc giáo dục thế hệ trẻ qua nhiều bài viết và diễn văn. Trong quyển Ideas and Opinions, Ý tưởng và Quan điểm, tập hợp những suy nghĩ của Albert Einstein về nhiều khía cạnh cuộc sống từ khoa học, xã hội, chính trị đến văn học, nghệ thuật, có một phần về giáo dục. Đương nhiên thế giới chúng ta đang sống đã chuyển sang thế kỷ 21 với vô vàn thay đổi nhanh chóng trong mọi mặt đời sống xã hội, mà nói đến giáo dục là nói đến tương lai tính bằng thập kỷ - mười mấy hai ba bốn chục năm nữa. Có thể có người coi quan điểm giáo dục cách nay sáu bảy chục năm đã lỗi thời. Nhưng vì tôi đồng quan điểm với Einstein nên tôi xin trích dẫn ý kiến của ông.
Động cơ quan trọng nhất đối với lao động trong nhà trường và trong cuộc đời là niềm vui trong công việc, niềm vui trong kết quả của lao động đó, và hiểu biết về giá trị của kết quả đó đối với cộng đồng. Tôi nhận ra nhiệm vụ quan trọng nhất được nhà trường giao phó khi đánh thức và củng cố sức mạnh tâm lý của một chàng trai trẻ. Chỉ riêng một nền tảng tâm lý như thế đủ dẫn tới niềm khao khát hân hoan đối với của cải cao quí nhất của con người, là tri thức và kỹ năng bậc nghệ sĩ”.
Einstein đã phát biểu như trên nhân lễ kỷ niệm 300 năm giáo dục đại học tổ chức ở Albany, New York, ngày 15 tháng 10, 1936, trong một bài diễn văn có tiêu đề “On Education”, bàn về giáo dục. Trong phần mở đầu, rồi lập lại ở phần kết, ông khiêm tốn coi mình là người không hẳn có chuyên môn về sư phạm, mà chỉ có kinh nghiệm riêng và niềm tin cá nhân, với tư cách một người học và một người dạy. Ông nói nếu là vấn đề khoa học thì người không chuyên môn và thiếu căn cứ chỉ nên im lặng. “Tuy nhiên, với những việc liên quan đến con người thiết thực thì khác. Ở đây hiểu biết về chân lý mà thôi thì không đủ; ngược lại hiểu biết này phải được liên tục làm mới lại bằng sự cố gắng không ngừng, nếu không kiến thức sẽ mất đi. Giống như một bức tượng cẩm thạch đứng trong sa mạc và luôn bị nguy cơ vùi lấp trong gió cát. Những bàn tay chăm chút phải luôn hoạt động để giữ cho bức tượng tiếp tục tồn tại trong ánh thái dương. Tôi xin góp tay vào công việc đó”.
Khi mời Einstein phát biểu người ta không đặt cho ông vấn đề đại học nên chú trọng ngành tài chính ngân hàng hay khoa học kỹ thuật, nhưng hẳn là người ta trông mong ông có ý kiến về việc đào tạo thế hệ tương lai cái gì và như thế nào. Sau khi dành 5/6 trang nói về ý nghĩa và tinh thần của một nền giáo dục có giá trị, Einstein nói: “ Tôi đã nói đầy đủ về việc thanh niên nên, theo quan điểm của tôi, được giáo dục trong tinh thần như thế nào. Nhưng tôi chưa nói gì về việc lựa chọn ngành học, hay phương pháp dạy học. Nên chú trọng ngôn ngữ hay giáo dục kỹ thuật trong khoa học?
Câu trả lời của tôi là: Tất cả những điều đó đều có tầm quan trọng bậc hai. Nếu một thanh niên rèn luyện cơ bắp và thể lực dẻo dai bằng thể dục và đi bộ, thì sau này anh ta thích hợp với mọi lao động chân tay. Điều này cũng tương tự như rèn luyện trí tuệ và thể dục tinh thần và thủ thuật. Cho nên định nghĩa của bậc thông thái về giáo dục không sai: “Giáo dục là cái còn lại, nếu người ta lỡ quên hết mọi thứ đã học ở trường.” Vì lý do này tôi không hào hứng đứng hẳn về một phe nào trong cuộc tranh chấp giữa những người chủ trương một nền giáo dục lịch sử triết học cổ điển hay một nền giáo dục trọng tâm là khoa học tự nhiên.
Mặt khác, tôi muốn phản đối ý kiến cho rằng trường học cần dạy trực tiếp kiến thức chuyên môn và những thành tựu mà người ta có thể sử dụng trực tiếp trong đời sống. Nhu cầu cuộc sống nhiêu khê đến nỗi sự huấn luyện chuyên môn trong nhà trường không có vẻ khả thi. Ngoài ra, hơn thế, tôi thấy rất khó chịu khi đối xử với một cá nhân như một công cụ vô hồn. Nhà trường nên luôn đặt mục tiêu là thanh niên tốt nghiệp với một nhân cách hài hòa, chứ không chỉ là một chuyên gia. Quan điểm này của tôi cũng áp dụng cho cả những trường kỹ thuật, nơi sinh viên chuyên chú theo đuổi một nghề chuyên môn nhất định.
Điều quan trọng bậc nhất là phát triển khả năng tư duy và phán đoán độc lập, chứ không phải có được kiến thức chuyên môn. Nếu một người am hiểu tường tận nền tảng môn học của mình và học được cách suy nghĩ và làm việc độc lập, anh ta chắc chắn tìm ra con đường cho mình, và hơn nữa sẽ có thể điều chỉnh bản thân mình cho thích nghi với sự tiến bộ và những thay đổi, tốt hơn hẳn so với những người được đào tạo chuyên môn với kiến thức cụ thể chi tiết”.
Mười sáu năm sau, trong bài Nền giáo dục cho tư duy độc lập đăng trên New York Times số 5 tháng 10, 1952, Einstein lại viết:
“Đào tạo một người một ngành chuyên môn thì không đủ. Được đào tạo như vậy người đó có thể trở thành một cái máy hữu dụng chứ không phải một nhân cách phát triển hài hòa. Điều thiết yếu là sinh viên đạt được hiểu biết và cảm nhận sinh động các giá trị. Anh ta phải có một nhận thức sâu sắc về những điều đẹp và tử tế. Nếu không, anh ta – với kiến thức chuyên môn – sẽ gần giống với một con chó được huấn luyện giỏi hơn là một con người phát triển hài hòa. Sinh viên phải học để hiểu những động lực sống của nhân loại, những ảo tưởng và những khổ đau của họ để có được mối quan hệ đúng với từng cá thể đồng loại và với cộng đồng nhân loại.
Những điều cao quí này được truyền giao cho thế hệ trẻ thông qua tiếp xúc trực tiếp với người dạy – hoặc chí ít cũng là chủ yếu - chứ không phải thông qua sách vỡ. Chính điều này tạo lập và bảo tồn văn hóa một cách căn cơ. Tôi nghĩ đến điều này khi khuyến cáo “nhân văn” là ngành học quan trọng, chứ không phải kiến thức chuyên môn khô khan trong các môn sử và triết.
Quá nhấn mạnh vào hệ thống cạnh tranh và chuyên môn hóa chưa thuần thục ở mức độ hữu dụng tức thì, bao gồm cả kiến thức chuyên môn hóa, giết chết tâm hồn mà toàn bộ đời sống văn hóa phụ thuộc vào.
Một điều cũng rất quan trọng đối với một nền giáo dục có giá trị đó là phát triển tư duy phê phán độc lập ở những người trẻ, một sự phát triển bị tác hại lớn do chồng chất lên sinh viên quá nhiều kiến thức và môn học quá khác biệt (hệ thống điểm). Quá tải tất yếu dẫn tới nông cạn. Dạy học nên là một hoạt động mà điều được truyền giao được tiếp nhận như món quà quí giá chứ không phải như một bổn phận nhọc nhằn”.
Đó là bài viết cuối cùng của Einstein đề cập đến giáo dục. Ông mất 3 năm sau đó. Có thể coi đây là di ngôn giáo dục của ông.
Lý Lan trích dịch từ quyển Ideas and Opinions, NXB The Modern Library, New York, 1994
Tiền Đi Đâu Về Đâu?
Xa thật là xa… Xưa thật là xưa… Chuyện kể rằng:
Có một bộ lạc sợ lạc đến nỗi cóp luôn cả một cái định hướng dài như đuôi khủng long đỏ vào tập Sử Yếu Chính Trị Tân Biên. Rốt cục, nhờ vào đoạn biên giới coi như đã xóa với các bộ lạc lân cận: “Bên đây biên giới là nhà / Bên kia biên giới cũng là quê hương”, thì, ai cũng rõ làm thế quái nào mà bộ (chính trị) này lạc được?
Đó cũng là bộ lạc có nhiều tù trưởng nhất thế giới, bởi mỗi người dân đều có quyền thay phiên nhau vào tù và có thể được chỉ định làm tù trưởng (dự khuyết hoặc chính thức) vài ba nhiệm kỳ, gọi là vé, mỗi vé được định sẵn bình quân khoảng ba năm, có thể được tái bản bất kỳ lúc nào, kêu bằng “vé chồng vé”, miễn từ và miễn phí.
Giai cấp lãnh đạo xứ này vẫn luôn tự hào rằng đây là xứ thiên đường, chỉ cần thêm nửa gang tay nữa là ngang bằng khúc trên thằng Cao Ly. Trước khi ghé chân vào Hội đồng Làm người của Liên hiệp Bộ lạc, xứ thiên đường này lại được xếp hàng hạnh phúc thứ nhì trên thế giới, vì vậy, nick mới của bộ lạc này là… Nhị Thiên Đường.

(bìa sách Tỉnh Mộng – Hồ Biểu Chánh – nxb Nhị Thiên Đường 1938)
Bộ quân sử cận đại thế giới chép rằng: Đứng đầu thế giới về tài nghệ “thí quân làm thí điểm”, đến mức quốc ca có ghi là “Đường vinh quang xây xác dân mình”… thì chỉ duy nhất một bộ lạc ở bán đảo Ấn-Trung, có tên La-tinh là Hungano. Phiên âm ra tiếng bản địa là Hung Nô, bởi đậm đà bản sắc vừa hung vừa nô.
Phần “Hung” thì cả loài người đều phải khấu đầu tán thán: Không ở đâu có Điện Biên dưới đất, Điện Biên trên không, và cả Điện Biên trên mạng. Phần “Nô” cũng không kém: Chưa có xứ nào có nhiều loại giai cấp quang vinh trộn lẫn Nông nô, Lao nô, Văn nô, Ca nô, Ma kê nô, Gia nô,… được cai quản tài tình bởi giai cấp Nặc nô.
Trong đó, giai cấp Gia nô lại được chia làm nhiều hạng mục: Lý luận gia, sử gia, chính trị gia, tư tưởng gia, kinh tế gia, chiến lược gia, đại gia, phê bình gia, chuyên gia, thiếu gia, tiểu thuyết gia, thể tháo gia, vật lý gia, hóa học gia, phi hành gia, bình luận gia, nhiếp ảnh gia, doanh gia, luật gia, nhạc gia, thông gia… (chỉ mỗi quốc gia là không đáng kể).
Vẫn thuộc giai cấp Gia nô, nhưng dưới trình gia, thì gọi là nhà: Nhà kách mệnh, nhà quân sự, nhà cầm quyền, nhà giáo dục, nhà toán học, nhà thông thái, nhà công thương, nhà ngoại cảm, nhà đại biểu, nhà văn hóa, nhà hùng biện, nhà biên kịch, nhà ngoại giao, nhà sản xuất, nhà tiên tri, nhà tu, nhà giáo, nhà thơ, nhà báo, nhà đài…
Tất nhiên, trên hết của mọi thứ nhà hoặc gia, và đứng riêng một cõi, là Hoàng Gia, nền tảng cơ bản của giai cấp Nặc nô, từng có công hãn mã là đã sánh vai tiền nhân anh hùng dựng nước, chấm dứt giai đoạn Phong Kiến truyền thống, kết thúc thời địa chủ bóc lột bần nông, và thống nhất lãnh thổ bản địa, để nâng cấp và hệ thống hóa dân tộc từ hàng Gia nô nửa nước lên hàng Quốc nô…
Bằng cách nào? Bằng cách phóng tay thiết lập một đế chế hoàn toàn mới, với chủ thuyết mới và con người mới. Bằng cách chận đứng mọi toan tính riêng lẻ trong tư duy và sáng tác. Bằng cách tuyên bố đất đai cha ông nghìn đời để lại có ghi tên lãnh đạo trên bằng khoán. Bằng cách cơ cấu tài nguyên cả nước vào những cơ quan cực giỏi quyền Anh, kêu bằng những quả đấm thép.
Bằng cách thay đổi định hướng phân bố đặc lợi sang đặc quyền. Theo đó, hệ tem phiếu đã trở thành lịch sử. Nhà nước không ban ơn suông một cách ngu muội như thời còn nhận quà của bầu bạn quốc tế. Nay, nhà nước chỉ đấu thầu việc ban ơn thông qua lãnh địa giao khoán và thu ngược tiền tô về trung ương. Còn quy trình thu vốn lấy lời cấp thấp là khả năng sáng tạo của địa phương.

“Không thủy điện nào không có quy hoạch” (Hoàng Trung Hải).
Nạn nhân đầu tiên và sau cùng, muôn đời và không đáng kể, chỉ là nhân dân. Đó là nhiệm vụ cao cả của nhân dân đối với một tập thể đã có công hãn mã nói trên. Đó là nghĩa vụ! Nhân dân hoàn toàn có mọi vinh dự nuôi đảng và nhà nước. Mà đã có gì gọi là nhiều, một khi công sức làm ra của cải của mỗi tá dân là đủ vỗ béo một cán bộ chăn dân bằng khẩu hiệu?
Ở chiều ngược lại, cán bộ mọi cấp cũng hoàn toàn có vinh dự được tùy thích tiêu tiền dân. Bởi nhân dân đã chẳng bầu ra QH, rồi QH chỉ định những thành viên thích hợp nhất của đảng vào các vị trí tiêu tiền dân đó sao? Ý niệm “tiêu tiền dân như tiêu bạc giả” của một nhà thơ chân thật không còn chỗ đứng thời này. Ý niệm mới cần phải quán triệt là của một phó thừa tướng trẻ nhất nội các:

“Các anh phải coi tiền của nhà nước như tiền của nhà mình…” (Vũ Đức Đam).
Thế thì, ngoài lương, ngoài bổng, ngoài “thu nhập sáng tạo”, ngoài “bồi dưỡng”… mọi cán bộ đều có nghĩa vụ tương ứng và xứng đáng với tiền thuế của dân là đẻ ra dự án, đẻ ra hội nghị, đẻ ra ban bệ xét duyệt, đẻ ra công du, đẻ ra quy hoạch, đẻ ra bằng cấp, đẻ ra quy chế thăng thưởng và trừng phạt… đẻ ra cả cách PR cho lãnh đạo bằng bóng đá:

(Một khi phó thừa tướng bao sân, ngay cả tay danh thủ Đà Nẵng cũng co vòi…)
Với kinh nghiệm đẻ đái đầy đường đó, phải ghi nhận tính chất thần kỳ hơn cả của trung ương là phương pháp giao phối hữu hiệu tiền thuế toàn dân với các món tiền viện trợ. Sao cho nợ công ngày càng mắn/sòn ra nhiều lứa. Sao cho nhà nước độc quyền mua bán vàng. Sao cho ngân hàng trở thành xưởng đẻ. Sao cho nợ xấu trở thành vũ khí. Sao cho lãnh đạo ngày càng tâm trạng:

“Cầm vốn nhà nước tâm trạng lắm!” (Vũ Văn Ninh)
Còn, ngư dân thì đánh cá ở ao hồ sông lạch cũng chẳng sao. Nông dân có thất thu thì có phải là do lãnh đạo muốn thế đâu? Công nhân có bị ức hiếp là do lỗi của họ không bầu đúng người vào công đoàn!… Nhà nước chỉ lo thu thuế vượt chỉ tiêu ngân sách. Mà vẫn được tiếng thương dân chưa được no ấm/vui khỏe/tiến bộ như nhân dân lân quốc, chỉ vì họ không còn đủ tiền…

“Bệnh nhân nào cũng là bệnh nhân, không có bệnh nhân thì không có bác sỹ. Bệnh nhân bảo hiểm y tế càng phải thương họ hơn vì họ không có tiền” (Nguyễn Thị Kim Tiến).
Tóm lại là mọi sự đều đúng quy trình: Nhân dân đóng tiền cho đảng và nhà nước tiêu tiền. Tất nhiên, ngân sách càng to thì guồng máy càng trơn. Bởi thế, một phần không nhỏ ngân sách sẽ được sử dụng hiệu quả để củng cố cái cơ chế chủ hụi giao phó nhiệm vụ cho mọi cán bộ trung thành. Ngày nào cơ chế đó còn vững mạnh, ngày đó mọi hiện tượng tan chảy của các quả đấm thép đều là bình thường…

“Gần suốt cuộc đời tôi theo đảng, tôi không chạy, xin hay thoái thác bất cứ nhiệm vụ gì đảng giao” (Nguyễn Tấn Dũng).
Kết luận chính thức, công khai và sau cùng: Tiền chẳng mất đi đâu. Nó đã được chi trả sòng phẳng cho các hãng rác quốc tế đăng bài ca tụng tay chủ xị bộ lạc. Nó đã được đánh đổi xứng đáng bằng những đồ biểu thống kê, và những món nợ còng lưng nhân dân xuyên thế hệ.
26-12-2013 – Kỷ niệm tròn 22 năm Đoàn Chủ Tịch Xô Viết Tối Cao nhóm họp và tuyên bố khai tử Liên Bang Xô Viết.
Blogger Đinh Tấn Lực

0 nhận xét:

Đăng nhận xét