Hôm Chủ nhật ngày 15/12, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đã quay trở lại vùng sông nước chằng chịt ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long thuộc tây nam Việt Nam, nơi ông đã từng ngồi thuyền máy truy tìm Việt Cộng.
Nhưng gần 50 năm sau, Kerry quay trở lại với tư cách Ngoại trưởng Mỹ để thúc đẩy giao thương và nuôi trồng thủy sản bền vững ở một đất nước mà kinh tế đang phát triển nhanh chóng.‘Cảm giác lạ’Khi thuyền của Kerry rời cầu tàu đi vào sông Cái Nước, ông nói với người hướng dẫn: “Tôi đã đi trên con sông này không biết bao nhiêu lần.”
Khi được hỏi ông có cảm giác thế nào khi lần đầu tiên quay trở lại chiến trường nơi ông từng phục vụ trong quân ngũ, Kerry nói: “Cảm giác lạ và sẽ còn lạ hơn nữa.”
“Tôi vẫn có thể nhắm mắt và hình dung ra hình ảnh đất nước mà tôi đã thấy trong cuộc chiến: hình ảnh những con trâu, những con rạch hẹp đến không ngờ, rừng đước, những người giăng câu trên ghe,” Kerry nói trong một đoạn video được đăng tải trên trang mạng của Sứ quán Mỹ ở Hà Nội trước thềm chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của ông trên cương vị người đứng đầu ngành ngoại giao Mỹ.
“Đồng bằng sông Cửu Long đang đối mặt với những thách thức to lớn,” ông nói “Chúng ta phải gìn giữ và bảo vệ hệ sinh thái mong manh ở đây.”
"Tôi vẫn có thể nhắm mắt và hình dung ra hình ảnh đất nước mà tôi đã thấy trong cuộc chiến: hình ảnh những con trâu, những con rạch hẹp đến không ngờ, rừng đước, những người giăng câu trên ghe"
Ngoại trưởng Mỹ John Kerry
Ông đã được tặng thưởng ba Chiến Thương Bội Tinh (Purple Hearts), một Ngôi sao Bạc và một Ngôi sao Đồng vì thành tích trong một cuộc chiến mà sau này ông lên án và gọi đó là ‘sai lầm to lớn’ – một cuộc chiến đã có ảnh hưởng sâu sắc đến con đường chính trị và nhãn quan chiến lược của ông.
“Khi tôi về nước sau hai lần phục vụ chiến trường, tôi đã rút ra một điều rằng phục vụ ở một chiến trường như thế đòi hỏi ở tôi nhiều hơn nữa,” ông viết trong một cuốn sách hồi năm 2003 khi ông thua trong cuộc bầu cử tổng thống, “Điều này khiến tôi phản đối chính cuộc chiến mà tôi đã tham gia chiến đấu.”
14 lần đến thăm “Bài học mà tôi học được ở Việt Nam là chúng ta sẽ gặp rắc rối nếu chúng ta để cho chính sách ngoại giao và an ninh quốc gia đi quá xa khỏi những giá trị của chúng ta với tư cách là một đất nước và một dân tộc.”
Đây là lần thứ 14 ông quay trở lại Việt Nam kể từ khi chiến tranh kết thúc nhưng lại là lần đầu tiên trong vòng 13 năm. Chuyến đi này nhằm thúc đẩy cách tiếp cận với Việt Nam mà ông chủ trương và kiến tạo khi còn là một thượng nghị sỹ vào những năm 1990.
Theo đó, Hoa Kỳ sẽ cho Hà Nội những đảm bảo an ninh và hướng đến thúc đẩy các cải cách kinh tế và dân chủ ở quốc gia cộng sản này.
Trong khoảng thời gian từ năm 1991 cho đến năm 2000, Kerry đã đến Việt Nam 13 lần trong nỗ lực bình thường hóa quan hệ, bắt đầu bằng các chuyến thăm để giải tỏa các vấn đề còn tồn tại về số phận của tù binh Mỹ và những người lính Mỹ mất tích.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh hay còn gọi là Sài Gòn, thủ phủ của miền Nam Việt Nam trước đây, Ngoại trưởng Kerry đã gặp gỡ cộng đồng doanh nhân ở đây hôm thứ Bảy ngày 14/12 để thông báo về Hiệp định đối tác Xuyên Thái Bình Dương, tức TPP, một thỏa thuận thương mại rộng lớn mà Mỹ hiện đang đàm phán với Việt Nam và chín nước châu Á khác.
Để hưởng lợi nhiều nhất từ các cơ hội kinh tế khi thỏa thuận này được ký kết, Kerry nhắc Việt Nam, vốn bị cộng đồng quốc tế lên án rộng rãi vì thành tích nhân quyền của họ, phải ‘thay đổi’.
Nhắc nhở nhân quyền “Cam kết đảm bảo môi trường Internet cởi mở, một xã hội cởi mở hơn, cam kết bảo đảm quyền con người được trao đổi ý kiến, một nền giáo dục chất lượng cao, một môi trường kinh doanh thuận lợi cho các công ty năng động, cam kết bảo vệ nhân quyền của mỗi người dân và quyền của họ phối hợp cùng nhau lên tiếng – tất cả những điều này sẽ tạo ra một nền kinh tế cũng như một xã hội mạnh mẽ hơn và cởi mở hơn,” ông phát biểu.
"Cam kết đảm bảo môi trường Internet cởi mở, một xã hội cởi mở hơn, cam kết bảo đảm quyền con người được trao đổi ý kiến...tất cả những điều này sẽ tạo ra một nền kinh tế cũng như một xã hội mạnh mẽ hơn và cởi mở hơn."
Ngoại trưởng Mỹ John Kerry
Ông đưa ra những phát biểu này sau khi tham dự thánh lễ ở Nhà thờ Đức Bà do người Pháp xây dựng ở trung tâm Sài Gòn trong một động thái bày tỏ sự ủng hộ quyền tự do tín ngưỡng ở Việt Nam.
Trong chuyến đi Đồng bằng sông Cửu Long hôm Chủ nhật ngày 15/12, Kerry đã đi khảo sát các dự án nông nghiệp vốn là chủ lực của kinh tế ở đây và đánh giá tác động của các dự án trên thượng nguồn sông Mekong và tình trạng biến đổi khí hậu.
Trong các cuộc hội kiến với giới lãnh đạo Việt Nam ở Hà Nội, Ngoại trưởng Kerry dự kiến sẽ nêu lên vấn đề tôn trọng nhân quyền, nhất là quyền tự do ngôn luận và tự do tín ngưỡng, là yếu tố thiết yếu để nâng tầm quan hệ Việt-Mỹ.
Ông cũng dự kiến sẽ nêu vấn đề các tù nhân chính trị mà Hoa Kỳ muốn Hà Nội thả.
Tuy nhiên trọng tâm trong các cuộc thảo luận giữa ông và các lãnh đạo Việt Nam sẽ là an ninh hàng hải và tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông.
Matthew Lee - Phóng viên hãng AP đi cùng ông Kerry
Chuyến thăm của Kerry và tương lai của Việt Nam
Các cuộc gặp của Ngoại trưởng Mỹ John Kerry ở Hà Nội vào hôm thứ hai là một sự kiện quan trọng trong tiến trình quan hệ ngoại giao song phương giữa Washington và Hà Nội trong những nỗ lực nhằm phát triển quan hệ này lên tầm “đối tác toàn diện”. Nhưng ý nghĩa lớn hơn của các cuộc gặp ấy, hay là mục đích tiềm tàng của chúng, đòi hỏi phải có một cái nhìn rộng hơn cả vào hiện tại lẫn tương lai.
Chuyến thăm của Kerry diễn ra vào một thời điểm đặc biệt thú vị trong tình hình chính trị Việt Nam. Quả thật, tốc độ thay đổi trong nền chính trị Việt Nam đã gia tăng với nội dung khó đoán biết hơn, và do đó, thú vị hơn so với hồi trước. Gần đây nhất, cuộc cải cách hiến pháp và những mối lo ngại về nhân quyền đã trở thành chủ đề bao trùm trong các thảo luận chính trị. Tôi sẽ tóm tắt những diễn biến mới này trước khi trở lại với câu hỏi lớn hơn được đề cập ở đầu bài.
Cải cách và nhân quyền
Chúng ta hãy bắt đầu với công cuộc cải cách hiến pháp, và cái kết luận chống lại sự thay đổi, cùng với các sự kiện liên quan đến nhân quyền. Sau một cuộc thảo luận mở và công khai chưa từng có tiền lệ về cải cách hiến pháp, trong đó có cả những thảo luận rất đáng chú ý về nhu cầu phải thay đổi thể chế căn bản, Quốc hội Khóa 13 của Việt Nam đã quyết định thông qua một bản hiến pháp sửa đổi mà về cơ bản là phớt lờ mọi thay đổi quan trọng, trước sự thất vọng (dù không ngạc nhiên) của những người cổ súy cho cải cách trong và ngoài nhà nước.
Ngay sau khi Quốc hội bỏ phiếu, một số ít nhưng đều là các nhân vật có tiếng, đảng viên lâu năm của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã rời khỏi Đảng. Những người này và các cá nhân cổ súy cho cải cách khác đều khẳng định rằng nếu Việt Nam muốn giải quyết các khó khăn lớn nhất lúc này, thì đất nước cần những định chế có thể tăng cường minh bạch, trách nhiệm giải trình, và nhà nước pháp quyền, theo một cách làm bản hiến pháp sửa đổi đã không làm được.
Vài ngày trước cuộc bỏ phiếu về hiến pháp, các nhà nước thành viên Liên Hợp Quốc cũng đã bỏ phiếu dành cho Việt Nam một ghế trong Hội đồng Nhân quyền. Như chúng ta có thể thấy trước, kết quả này bị đón nhận trong sự thất vọng của những người ủng hộ cải cách trong và ngoài nhà nước, và của những người đã phải chịu đựng hậu quả của các thành tích nhân quyền “không khí” của Việt Nam.
Điều mà có lẽ không được trông đợi, từ cả phía chính quyền lẫn nhiều nhà quan sát đang phát nản về chính trị Việt Nam, là phản ứng rất thông minh và mới mẻ của những người ủng hộ cải cách. Thay vì thất vọng giơ tay lên trời hay âm thầm rút lui vào im lặng, họ đã hào hứng đón nhật kết quả Việt Nam vào LHQ như một cơ hội để buộc nhà nước phải giải trình trách nhiệm như một thành viên đầy tích cực của Hội đồng Nhân quyền.
Có thể thấy điều này rõ nhất ở các nỗ lực – dựa vào xã hội dân sự – của những người ủng hộ cải cách nhằm quảng bá việc Việt Nam trở thành thành viên Hội đồng, nhằm nhấn mạnh một cách rất đặc biệt những cam kết chính thức của Việt Nam liên quan đến Công ước Quốc tế về Nhân quyền, và nhằm tiến hành một chiến dịch gây xôn xao một cách đáng ngạc nhiên, mặc dù được tổ chức lỏng lẻo, nhằm nâng cao nhận thức của người dân Việt Nam về nhân quyền và quyền thực tế của họ như là những công dân của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Vào các ngày 8 và 10/12, chỉ sáu ngày trước các phiên đàm phán song phương của Kerry ở Hà Nội, và trong bối cảnh đàm phán về TPP đang diễn ra (và khá căng thẳng), những người cổ súy cho cải cách ở Việt Nam đã tổ chức một loạt sự kiện kỷ niệm ngày Nhân quyền Quốc tế, gồm những buổi sinh hoạt, thảo luận với người của cộng đồng quốc tế, và chính thức thành lập tổ chức phi đảng phái – Mạng Lưới Blogger Việt Nam.
Người tham dự tụ tập ôn hòa để phân phát tài liệu về nhân quyền và các cam kết của Việt Nam liên quan đến nhân quyền (một nhiệm vụ mà đúng ra chính nhà nước Việt Nam phải tham gia). Thật không may, nếu không nói là đáng ngạc nhiên, là các nỗ lực này được đáp lại bằng một loạt biện pháp đàn áp quá quen thuộc, từ việc cho nhân viên an ninh mặc thường phục và côn đồ đánh đập, đến thu giữ trái phép tài sản cá nhân, và đe dọa.
Người ta có thể ngạc nhiên tự hỏi, những diễn biến thú vị này trong tình hình chính trị Việt Nam sẽ ảnh hưởng tới các cuộc thảo luận hôm thứ hai ra sao.
Tình hình chính trị ở Hà Nội
Là người Mỹ và là người quan sát lâu năm về chính trị và xã hội ở Việt Nam, nhưng tôi chưa bao giờ đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ Mỹ-Việt. Tuy nhiên, trong tình hình bây giờ, tôi bỗng thấy mối quan hệ này thu hút chú ý và quan trọng. Lập trường của Việt Nam trong các cuộc đối thoại – vào thời điểm đặc biệt hiện nay – đặc biệt thú vị, và khó giải mã. Điều gì đang diễn ra ở quảng trường Ba Đình, chúng ta có thể phỏng đoán không? Trước khi trả lời trực tiếp câu hỏi này, cái quan trọng là phải nhấn mạnh rằng bên dưới vẻ bề ngoài thống nhất của một nước độc đảng, nhà nước Việt Nam, ở một vài khía cạnh đáng chú ý, lại là đa nguyên, mặc dù theo một kiểu không hữu hiệu). Hành vi của nó chỉ có thể được hiểu như là sản phẩm kết hợp của một cuộc tranh giành đấu đá, đôi khi có màu sắc phong kiến, giữa các nhân tố cải cách và các nhân tố muốn giữ mọi sự ở nguyên trạng.
Mặc dù cuộc bỏ phiếu thông qua hiến pháp cho thấy những giới hạn trần, hoặc mục đích tới hạn của những động lực cải cách bên trong chính quyền, nhưng thật ra, số phiếu tán thành là một phong vũ biểu phản ánh sai lạc tình hình trong chính quyền, bởi lẽ, các đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam buộc phải thuận theo cơ chế trung ương quyết định, và hành vi thách thức công khai trước Quốc hội – một cơ quan của Đảng, do Đảng và vì Đảng – chỉ đơn giản là không nằm trong các khả năng có thể xảy ra.
Với mong muốn tăng cường quan hệ với Washington, mở rộng thị trường đầu ra cho thương mại, và thúc đẩy lại nhịp độ đầu tư hiện đang ì ạch, chính phủ Việt Nam giữ lập trường để có thể hưởng lợi thật nhiều từ một cách tiếp cận đa dạng hơn, sáng tỏ hơn và (như một số người Việt Nam có thể nói) văn minh hơn trong việc điều hành đời sống xã hội trong nước, và trong các diễn văn chính trị, trong việc vận động chính trị trong nước nói riêng.
Tôi không phải là nhà phân tích duy nhất có quan điểm cho rằng yếu tố quan trọng nhất mà nền kinh tế chính trị của Việt Nam đang thiếu là minh bạch, trách nhiệm giải trình, và nhà nước pháp quyền. Dứt khoát là các tiến bộ trong cải cách ở Việt Nam – và quả thật là trong cách vận hành của nền kinh tế – phụ thuộc vào những đối sách rõ ràng, hiệu quả đối với các khiếm khuyết về thể chế. Dường như đã rõ ràng là để có được những đối sách này, thì cần phải có một nỗ lực xây dựng không ngừng nghỉ nhằm chấm dứt mô hình điều hành xã hội thiếu tính xây dựng, đầy hoang tưởng, bạo lực và quả thật là bất hợp pháp, mà chúng ta đã chứng kiến trong quá khứ và hiện tại.
Vâng, người Việt Nam ở trong và ngoài bộ máy nhà nước đều có những khác biệt về việc chính trị Việt Nam phải như thế nào. Một số người cho rằng “chủ nghĩa xã hội hoàn hảo” có lẽ phải cuối thế kỷ mới có. Tuy nhiên, với những người có suy nghĩ nghiêm túc về việc giúp đất nước tiến lên, thì có một nhu cầu to lớn hơn bao giờ hết, là phải vượt qua những động lực đàn áp hoang tưởng trong quá khứ.
Tôi tin rằng người dân Việt Nam không muốn trải qua thêm nhiều năm, thậm chí thập niên, cái mà chúng ta có thể gọi là “hội chứng Việt Nam”: một sự kết hợp đặc biệt giữa đa nguyên không minh bạch và bất hữu hiêu, hành vi phong kiến, và những động lực trấn áp mà từ đâu đã đại dện cho nền chính trị cả nước, và vẫn đang tiếp tục phá hoại cũng như giới hạn các khả năng có được một trật tự xã hội công bằng, năng động về kinh tế, và sôi động hơn.
Cái mà người Việt Nam xứng đáng được hưởng, nhưng cuộc cải cách hiến pháp gần đây đã bác bỏ – là các bước tiến thực sự và có ý nghĩa nhằm giải quyết những hạn chế căn bản về thể chế. Điều này đưa chúng ta trở lại với các cuộc đàm phán song phương trong tuần.
Quá khứ, hiện tại và tương lai
Thật kỳ cục và trùng khớp là tại thời điểm quyết định hiện nay trong lịch sử đương đại Việt Nam, các gương mặt lãnh đạo của đất nước đều gặp khó khăn trong việc đối thoại một cách xây dựng với Mỹ. Có một mối quan hệ đặc biệt giữa Mỹ và Việt Nam, vì những lý do mà tất cả chúng ta đều đã biết.
Bản thân Ngoại trưởng Kerry cũng là một phần trong quá khứ này, và nói chung ông được những phe lớn trong đội ngũ lãnh đạo Việt Nam mến và tôn trọng. Do đó, để Việt Nam tiến lên, có cách nào tốt hơn là chấm dứt kiểu chính trị đàn áp, lạc hậu, và thực thi các khả năng để giúp Việt Nam đi tới.
Những cuộc cải cách thể chế có ý nghĩa sẽ chỉ đến thông qua tiến trình đa phương, mà vào một thời điểm nào đó, có thể vượt qua các trở lực nằm bên trong phe bảo thủ, đầu óc bị ám ảnh vì an ninh quốc gia. Những con người dũng cảm cổ súy cho xã hội dân sự ở Việt Nam hiện nay tiến hành công việc của họ bất chấp nguy hiểm lớn, bởi vì họ yêu nước và họ khao khát những quyền tự do căn bản, mà chính nhà nước của họ đã cam kết, cả theo hiến pháp lẫn theo các quy định quốc tế.
Trên thực tế, chính là nhà nước Việt Nam, chứ không phải công dân Việt Nam, muốn ngồi vào Hội đồng Nhân quyền, và họ nên, họ phải thúc đẩy nhân quyền trong nước mình. Thay vì đánh đập những người ủng hộ cải cách, nhân viên công quyền nên bảo vệ, và tham gia cùng những nhà hoạt động đó trong tinh thần “niềm tin chiến lược” như chính Nguyễn Tân Dũng đã đề cập cách đây không lâu ở Singapore.
Cuối cùng, cải cách thể chế, theo hướng Việt Nam cần, sẽ đòi hỏi những nỗ lực của rất nhiều bên tham gia, cả ở trong và ngoài chính quyền, kể cả những phe phái trong nhà nước mà vốn vẫn phản đối hoặc chỉ đơn giản là chẳng biết gì về nhu cầu cải cách. Việt Nam không phải Trung Quốc và sẽ không bao giờ là Trung Quốc. Và đó là một điều tốt. Việt Nam cũng không phải một đất nước sẽ đi áp dụng chủ nghĩa tân tự do một cách ngu ngốc.
Việt Nam cần vạch ra con đường của chính mình. Và hy vọng của công dân Mỹ này là những cuộc đàm phán song phương hôm thứ hai, cùng với các nỗ lực cải cách trong và ngoài nhà nước, sẽ giúp đất nước Việt Nam tuyệt vời này bước vào một con đường hứa hẹn hơn. Một con đường có thể thật sự mang lại cho đất nước Tự do, Độc lập, Hạnh phúc, những điều mọi người dân vốn vẫn khao khát, bất kể giai cấp, đảng phái, tầng lớp.
Jonathan D. LondonSau khi đáp chuyên cơ xuống sân bay Tân Sơn Nhất Sài Gòn vào trưa nay 14.12, Ngoại trưởng Mỹ John Forbes Kerry đã đến thăm nhà thờ Đức Bà và dự thánh lễ tại đây.
Ngoại trưởng Mỹ John Forbes Kerry thoải mái dạo phố Sài Gòn
Trưa nay, Ngoại trưởng Mỹ John Forbes Kerry đã tới Sài Gòn, mở đầu chuyến viếng thăm chính thức Việt Nam. Dưới cái nắng dịu, ông cùng đoàn tùy tùng thoải mái đi bộ tại trung tâm Sài Gòn và vẫy tay chào mọi người.
Đây là lần đầu tiên, ông John Kerry, cựu binh trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam, quay lại Sài Gòn trên cương vị là ngoại trưởng Mỹ.
Trước khi bắt đầu lịch làm việc tại Sài Gòn, ông Kerry đã cùng đoàn tùy tùng tới dự thánh lễ tại nhà thờ Đức Bà.
Sau ngày làm việc hôm nay tại Sài Gòn, ông Kerry sẽ xuống Đồng bằng sông Cửu Long để thăm lại chiến trường cũ, nơi ông đã cùng hải quân Mỹ có mặt trong cuộc chiến Việt Nam.
Đây là lần đầu tiên, ông John Kerry, cựu binh trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam, quay lại Sài Gòn trên cương vị là ngoại trưởng Mỹ.
Trước khi bắt đầu lịch làm việc tại Sài Gòn, ông Kerry đã cùng đoàn tùy tùng tới dự thánh lễ tại nhà thờ Đức Bà.
Sau ngày làm việc hôm nay tại Sài Gòn, ông Kerry sẽ xuống Đồng bằng sông Cửu Long để thăm lại chiến trường cũ, nơi ông đã cùng hải quân Mỹ có mặt trong cuộc chiến Việt Nam.
Ông Kerry cùng đoàn tùy tùng tản bộ trên đường phố Sài Gòn
Ngoại trưởng Mỹ vui vẻ vẫy tay chào người dân hai bên đường
Ngoại trưởng Mỹ tới chào các vị linh mục tại nhà thờ Đức Bà
Thích thú xem lại những địa danh Sài Gòn có từ xưa tại khu vực trung tâm
Ông John Kerry trong nhà thờ Đức Bà
Sau khi dự thánh lễ tại nhà thờ Đức Bà, ông Kerry cùng đoàn tùy tùng đi bộ qua Trung tâm Hoa Kỳ (tại tòa nhà Diamond Plaza)
Trong suốt hành trình ông Kerry luôn vui vẻ vẫy tay chào người dân hai bên đường
Trích từ http://baomai.blogspot.com/2013/12/chuyen-tham-cua-kerry-va-tuong-lai-cua.html;Con gái Ngoại trưởng Mỹ: ‘Việt Nam là một phần cuộc đời tôi’Ông Kerry và gia đình trong chuyến thăm Việt Nam hồi đầu những năm 90. Ông John Kerry sẽ lần đầu tiên đặt chân tới Việt Nam trên cương vị Ngoại trưởng Mỹ vào ngày 15/12 với mục đích thúc đẩy mối quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước. Hơn 20 năm trước, ông cũng từng thực hiện một chuyến đi đã có tác động mạnh tới cuộc sống sau này của con gái ông, cô Vanessa Kerry. VOA đã hỏi chuyện cô về chuyến đi cũng là đầu tiên tới Việt Nam ở tuổi 14 cũng như những câu chuyện về Việt Nam mà cha cô chia sẻ. Trước hết cô kể lại cơ duyên về chuyến thăm tạo cảm hứng lớn cho cô những năm 90. Dr. Vanessa Kerry & John Kerry Bà Vanessa Kerry: Tôi hết sức may mắn vì cha tôi tham gia tiến trình bình thường hóa quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam trong những năm 90. Và chính vì thế, ông thường xuyên tới Việt Nam. Nước này chiếm một phần lớn trong cuộc đời của cha tôi bởi Chiến tranh Việt Nam. Việt Nam và văn hóa của nước này dường như là một phần của cuộc đời chúng tôi.Cha tôi muốn đưa chúng tôi tới thăm Việt Nam, và tôi tới đó khi 14 tuổi. Tới khi ấy, tôi thực sự chưa bao giờ tới một nơi nào mà lại khác xa so với nước Mỹ đến vậy. Lúc đó Việt Nam vẫn chịu cảnh bị cấm vận nên mọi thứ đều thiếu thốn hơn so với những gì chúng tôi có ở Mỹ. Điều đó gây ấn tượng mạnh đối với tôi. Tôi không thể hiểu nổi vì sao lại có sự bất công đến vậy. Đó là một trải nghiệm sâu sắc và ám ảnh tôi mãi. Nó thực sự tác động tới quyết định theo đuổi ngành y và làm việc khắp toàn cầu của tôi. VOA: Kể từ đó bà đã khi nào quay trở lại Việt Nam chưa? Bà Vanessa Kerry: Có. Tôi trở lại Việt Nam vào năm 2000 trong một tuần. Chuyến đi đầu tiên tới đó có tác động sâu sắc tới tôi nên khi tới Trung Quốc tôi muốn quay lại Việt Nam. Và lần này, tôi lại ấn tượng mạnh với mức độ phát triển và đổi thay tại đó. Tôi thấy vui vì quay lại Việt Nam để gặp gỡ người dân ở đó.VOA: Đương kim Ngoại trưởng Mỹ có ảnh hưởng như thế nào tới bà? Bà Vanessa Kerry: Cha cũng như mẹ tôi có ảnh hưởng rất lớn đối với cuộc đời tôi. Mẹ tôi qua đời 7 năm trước. Nhưng cả hai người đã nuôi dưỡng trong tôi khái niệm công dân toàn cầu. Đặc biệt là cha tôi, những gì ông đã làm đều là trong lĩnh vực công và luôn hướng tới việc trả ơn. Ông cũng nói với tôi rằng tôi thuộc về một thế giới rộng lớn và phải chịu trách nhiệm cho vai trò của mình trong xã hội. Tôi thật may vì là con của ông. VOA: Cha bà từng chiến đấu tại Việt Nam, và sau đó trở thành người có tiếng nói phản chiến mạnh mẽ. Ông có kể với bà về những gì đã xảy ra với ông hay không? Bà Vanessa Kerry: Thật buồn cười, nhưng tôi không nghĩ cha tôi từng thực sự kể cho chúng tôi nghe những gì đã xảy ra với ông tại Việt Nam. Bản thân tôi thì nghĩ rằng chiến đấu trong một cuộc chiến là một trải nghiệm đầy bối rối và đau khổ. Tôi nghĩ ông chiến đấu cho nước Mỹ nên phải hoàn thành nhiệm vụ nhưng đồng thời ông cũng phải vật lộn với suy nghĩ về những gì xảy ra, về cách thức tiến hành cuộc chiến, cũng như ý nghĩa của nó đối với đất nước. Tôi nghĩ đó là lý do lớn khiến ông trở lại và biểu tình phản chiến. Tôi lớn lên với một truyền thống là phải nói lên suy nghĩ của mình và phải bảo vệ những gì mình cho là đúng đắn. Đó là điều hình thành từ cuộc biểu tình phản chiến của cha tôi. Việc ông đưa chúng tôi tới Việt Namvì ông thấy được vẻ đẹp và niềm vui ở nước này. Đó là điều ông muốn chia sẻ với chúng tôi. Và tôi nghĩ ông cũng muốn chúng tôi thấy vết sẹo mà cuộc chiến gây ra cũng như những gì ông đã trải qua vì đó là một phần lớn của cuộc đời ông. Tôi nghĩ đôi khi thật khó để kể bằng lời về những gì đã xảy ra đến với mình, và điều đó khó hơn so với việc chứng kiến tận mắt. Vanessa Kerry Khi chúng tôi đến năm 1991, Việt Nam rõ ràng là đã thanh bình hơn so với những năm 60 và 70. Nhưng vì lệnh cấm vận, tôi có thể cảm nhận được tác động lâu dài của cuộc chiến. Ông đưa chúng tôi tới một trại trẻ mồ côi mà ở đó trẻ em có mẹ Việt và bố là lính Mỹ. Chúng bị bỏ rơi vì điều đó, và thật đáng buồn khi phải chứng kiến di sản không tốt đẹp từ cuộc chiến. Tôi nghĩ đó cũng là một ví dụ cho thấy cách cha tôi muốn chúng tôi hiểu sự phức tạp của một trong những điều ông từng chứng kiến. Bà Vanessa Kerry: Đó là điều có thể. Chúng tôi hợp tác chặt chẽ với ‘Peace Corps’ (đoàn thanh niên phụng sự hòa bình của Mỹ) nên chúng tôi có thể mở rộng phạm vi hoạt động tại các nước. Việc có thể giúp cải thiện hoạt động giáo dục y tế và chăm sóc sức khỏe ở Việt Nam sẽ là điều rất có ý nghĩa. http://www.blogger.com/blogger.g?blogID=7164866948807329684#editor/target=post;postID=8051127752506569718;onPublishedMenu=posts;onClosedMenu=posts;postNum=7;src=linkVOA: Là người sáng lập tổ chức y tế cộng đồng ‘Seed Global Health’, bà có dự định thực hiện một dự án về sức khỏe nào ở Việt Nam trong tương lai hay không? | Con gái Ngoại trưởng Mỹ: ‘Việt Nam là một phần cuộ... |
BBC: Lời ông Sang và ông Kerry có gì mới?
Cuộc gặp giữa Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang và Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry không mang lại điều gì mới mẻ nếu dựa vào diễn văn chính thức của hai phía.
Cũng giống như người tiền nhiệm Hillary Clinton, ông Kerry có thể được coi là "người bạn" của Việt Nam.Và dường như các ưu tiên của Hoa Kỳ trong quan hệ với Hà Nội vẫn như thời của bà Clinton. Trong phát biểu của mình, trước hết ông Kerry nhắc tới vấn đề tìm kiếm lính Mỹ mất tích trong cuộc chiến Việt Nam cũng như đảm bảo rằng không còn tù nhân Mỹ ở Đông Nam Á.
"Họ đã giúp chúng ta tìm vài ngàn người con của nước Mỹ trong lúc số người mất tích của họ còn lớn hơn.
"Họ tự nguyện đào những đồng lúa để giúp chúng ta tìm câu trả lời.
"Họ để chúng ta vào nhà họ, họ để chúng ta vào những ngôi nhà lịch sử của họ.
"Họ để chúng ta vào các nhà tù của họ, đôi khi không báo trước, để phỏng vấn tù nhân.
"Và họ đã sẵn sàng để trực thăng bay trên các ngôi làng, như các chuyến bay từng diễn ra trong bối cảnh khác, để tham vấn người dân, để trả lời các câu hỏi không có lời đáp trong nhiều năm. Và không chỉ một lần họ dẫn chúng tôi qua những bãi mìn theo đúng nghĩa của từ này."
Nhớ lại hồi tháng 7/2012, Bà Clinton cũng đánh giá cao sự hợp tác của Việt Nam trong cố gắng tìm kiếm những người Mỹ mất tích khi thăm Hà Nội lần thứ ba với tư cách ngoại trưởng.
Bà nói: "Khi tôi đến đây cùng chồng khi ông tới thăm với tư cách Tổng thống hồi năm 2000, chúng tôi đã chứng kiến công việc của những nhóm làm việc hỗn hợp Mỹ - Việt và tôi vô cùng cảm động.
"...Qua những nỗ lực này, chúng ta đã hồi hương và xác minh được gần 700 [hài cốt] người Mỹ.
"Nhưng gần 1.300 người vẫn còn đang mất tích, và khi Bộ trưởng [Quốc phòng] Panetta [đã nghỉ] tới đây, Việt Nam tuyên bố Việt Nam sẽ mở cửa những vùng trước đây bị khoanh lại và chúng tôi rất biết ơn về điều này.
"Và chúng tôi muốn làm nhiều hơn nữa để giúp Việt Nam tìm kiếm người mất tích từ phía họ nữa."
Không còn kém nữa Mặc dù số người bộ đội còn mất tích của Việt Nam trong cuộc chiến lớn hơn rất nhiều so với con số 1.300 còn lại của Hoa Kỳ nhưng hiếm khi các nhà lãnh đạo Việt Nam coi đây là trọng tâm như người Mỹ vẫn làm trong suốt hơn hai thập niên bình thường hóa quan hệ vừa qua.
"Nhưng bất chấp những khác biệt về nhân quyền, hai bên đều tìm cách tăng cường quan hệ "
Đáp từ ông Kerry, ông Sang nói: "Sau hơn 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới, từ một nước kém phát triển, Việt Nam đã vươn lên trở thành một nước có thu nhập trung bình với tốc độ tăng trưởng khá và đã đạt trước thời hạn nhiều Mục tiêu Thiên niên kỷ.
"Chính sách của chúng tôi là duy trì đà tăng trưởng, tiếp tục cải thiện đời sống người dân, tái cơ cấu nền kinh tế và đẩy mạnh cải cách hành chính và phòng chống tham nhũng.
"Bên cạnh đó, chúng tôi tiếp tục triển khai chính sách đối ngoại chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
"Sau nhiệm kỳ là Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an từ 2008 – 2009, Chủ tịch ASEAN năm 2010, chúng tôi đang ứng cử vào nhiều cơ quan đa phương và sẽ tham gia vào Lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc trong thời gian tới. Việt Nam mong muốn là một thành viên có trách nhiệm, đáng tin cậy và đóng góp tích cực trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế nhằm duy trì hòa bình, ổn định, hợp tác ở Đông Nam Á và Châu Á – Thái Bình Dương."
Qua cách mở đầu của hai bên cũng có thể thấy phần nào sự khác biệt trong cách nhìn của hai nước về con người.
Hoa Kỳ có vẻ xem mỗi một con người, ngay cả những người đã tử trận mà chưa biết tung tích, đều cần được quan tâm trong khi Việt Nam có cái nhìn bắt đầu từ thực thể lớn hơn là cả một đất nước, một chính quyền.
Tài năng và cơ hội Sau khi nhắc tới những người Mỹ đã bỏ mình vì đất nước trong cuộc chiến mà chính ông cũng tham gia, Ngoại trưởng Kerry nói tới quan hệ kinh tế giữa hai nước:
"Nhờ hiệp định thương mại song phương lịch sử hồi năm 2001, thương mại song phương đã tăng 50 lần kể từ năm 1995 tới nay. Và thu nhập bình quân đầu người ở Việt Nam tăng gần 500%.
"Cùng với Việt Nam và các nước khác trong vùng, chúng ta đang cố gắng để đạt được Đối tác Xuyên Thái Bình Dương, một hiệp định thương mại chất lượng cao của thế kỷ 21, vốn sẽ đẩy mạnh liên kết kinh tế vùng, sự thịnh vượng và cơ hội cho người dân của tất cả các nước thành viên."
"Nhờ hiệp định thương mại song phương lịch sử hồi năm 2001, thương mại song phương đã tăng 50 lần kể từ năm 1995 tới nay. Và thu nhập bình quân đầu người ở Việt Nam tăng gần 500%."
Ngoại trưởng John Kerry
Cũng ở Hà Nội tháng 7 năm ngoái, bà Clinton nói về tầm quan trọng của cơ hội, điều ông Kerry vừa nhắc trong diễn văn:
"Tôi hay nói rằng tài năng có ở mọi nơi nhưng cơ hội lại không phải vậy," bà Clinton nói.
Một trong những cơ hội mà Hoa Kỳ muốn tạo ra cho người lao động Việt Nam qua TPP là khả năng liên kết lại với nhau để có sức mạnh mặc cả với giới chủ khi thương lượng về điều kiện làm việc và chế độ đãi ngộ.
Ngoài mặt, Việt Nam luôn nói muốn cải thiện đời sống của người dân nhưng họ luôn lo lắng trước bất cứ một sự liên kết nào có tiềm năng xói mòn thêm nữa tính chính danh vốn đã mai một nhiều của chính quyền.
Quyền con người Những người "bạn Mỹ" của Việt Nam đã luôn nhắc Hà Nội về tầm quan trọng của vấn đề quyền con người. Ông Kerry nói hôm 24/7:
Về điều này bà Clinton hồi tháng 7/2012 nói rõ hơn khi đề cập tới TPP:
"Tiêu chuẩn cao [của TPP] là quan trọng vì nếu Việt Nam tiếp tục phát triển và tiến lên thành nền kinh tế năng động và sáng tạo của thế kỷ 21, sẽ cần phải có nhiều không gian hơn để tự do trao đổi ý tưởng, tăng cường tính pháp quyền và tôn trọng quyền phổ quát của mọi người lao động trong đó có quyền tham gia công đoàn.
"Tôi biết có người cho rằng các nền kinh tế đang phát triển cần coi trọng tăng trưởng kinh tế và sau đó mới nghĩ tới cải cách chính trị và dân chủ, nhưng đó là sự đánh đổi thiển cận.
"Dân chủ và sự thịnh vượng đi đôi với nhau, cải cách chính trị có liên hệ với tăng trưởng kinh tế, và Hoa Kỳ muốn hỗ trợ tiến bộ ở cả hai lĩnh vực."
Tự do chính trị cho các cá nhân người Việt Nam, một nội hàm của nhân quyền cũng đã được chồng bà, Tổng thống Bill Clinton nói khi đến Việt Nam năm 2000.
Tại buổi ăn trưa ở Bộ Ngoại giao, ông Trương Tấn Sang cũng nhắc tới nhân quyền một cách chung chung:
"Hai nước chúng ta tiếp tục duy trì đối thoại về các vấn đề cùng quan tâm, trong đó có vấn đề quyền con người.
"Thông qua các cuộc đối thoại, chúng ta hiểu nhau hơn, nhất là về cách tiếp cận cũng như những đặc thù về văn hóa, lịch sử của mỗi bên.
"Việt Nam luôn nỗ lực để bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, phấn đấu để người dân chúng tôi được hưởng những thành quả tốt đẹp nhất của công cuộc đổi mới đang diễn ra."
"Cũng như những gì Chính quyền Hoa Kỳ đang hướng tới, chúng tôi không ngừng cải thiện các chương trình y tế, xã hội, giáo dục cho người dân của mình, và đặc biệt là những người dân nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số."
'Khoảng cách nhân quyền' Nhìn vào khoảng cách từ khi nguyên thủ quốc gia đầu tiên của Việt Nam Nguyễn Minh Triết vào Nhà Trắng hồi hè năm 2007 cho tới nay, hai bên dường như không thu hẹp được khoảng cách về cách chính quyền cần hành xử với dân.
Kể từ đó tới nay Việt Nam tiếp tục bỏ tù nhiều người mà các tổ chức nhân quyền nói chỉ bày tỏ chính kiến của mình.
Chính quyền cũng có vẻ sử dụng tới lực lượng công an để giải quyết các tranh chấp giữa lực lượng công quyền và người dân thay vì sử dụng đối thoại, điều mà họ luôn kêu gọi trong đàm phán quốc tế, nhất là trước xu hướng dùng vũ lực của Trung Quốc trên Biển Đông.
Ông nói về vụ xử một số người mà Hoa Kỳ coi là bất đồng chính kiến:
"Chúng tôi quan ngại về hành động này của chính phủ Việt Nam. Hồi tháng mười năm ngoái khi tôi sang thăm Việt Nam tôi đã trao đổi vấn đề này với các quan chức cao cấp trong chính quyền ở cả Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
"Tôi nghĩ rằng sự minh bạch, thành thật và cởi mở luôn là những điều rất quan trọng trong bất kỳ mối quan hệ nào. Như tôi đã nói các quyền tự do cá nhân trong đó quyền tự do thể hiện ý kiến cá nhân của mình trong khuôn khổ pháp luật là điều căn bản của nhân quyền.
"Nhưng chúng ta phải nhìn nhận các khác biệt theo hướng là các khác biệt này sẽ được giải quyết như thế nào. Có rất nhiều lĩnh vực mà chúng ta có sự đồng thuận, nhiều lĩnh vực chúng ta đang hợp tác tốt và chúng ta phải dựa vào đây để xây dựng sự tin cậy và hiểu biết lẫn nhau để giải quyết những vấn đề hai bên có quan điểm khác nhau."
Vi phạm pháp luật Về phía Việt Nam, khi bị chất vấn về các vụ xử đó, ông Triết đáp lại: "Đất nước Việt Nam có luật lệ của Việt Nam, luật pháp của Việt Nam, Hiến pháp của Việt Nam, mọi người công dân của Việt Nam phải tuân thủ hiến pháp và pháp luật, nếu ai làm sai cái đó thì họ phải bị xử phạt.
"Vừa qua Việt Nam xử lý những người vi phạm pháp luật của Việt Nam.
"Đó không phải là bất đồng chính kiến bởi vì họ có những hoạt động gây phương hại đến an ninh của quốc gia.
"Tôi cho rằng hai nước đang đứng trước những cơ hội để đưa quan hệ song phương sang giai đoạn phát triển mới. "
Chủ tịch Trương Tấn Sang
Hiện chưa rõ ông Trương Tấn Sang sẽ trả lời ra sao khi bị hỏi về những vấn đề nhân quyền cụ thể. Nhưng khó mong đợi lãnh đạo Việt Nam phát biểu quá khác so với những gì ông Triết từng nói.
Nhưng bất chấp những khác biệt về nhân quyền, hai bên đều tìm cách tăng cường quan hệ trong những lĩnh vực mà họ đều có lợi.
Ông Sang thậm chí tuyên bố: "Tôi cho rằng hai nước đang đứng trước những cơ hội để đưa quan hệ song phương sang giai đoạn phát triển mới.
"Hai bên cần tiếp tục làm sâu sắc các lĩnh vực hợp tác, thúc đẩy mạnh mẽ các lĩnh vực trọng tâm như kinh tế - thương mại - đầu tư, khoa học - công nghệ, giáo dục đào tạo, khắc phục hậu quả chiến tranh và cùng các đối tác sớm kết thúc đàm phán Hiệp định TPP, duy trì đối thoại thẳng thắn và cởi mở về những vấn đề khác biệt."
Nguyễn Hùng
Phóng to Ngoại trưởng Mỹ tới tỉnh Cà Mau hôm 15/12 để thực hiện một cuộc hành trình trên sông Mekong. Ông từng tham chiến tại tỉnh Cà Mau cách đây 44 năm. Ảnh: Reuters
Hơn 40 năm trước, chàng lính thủy đánh bộ John Kerry từng tuần tra trên dòng sông này. Giờ đây, trở lại Việt Nam với tư cách ngoại trưởng Mỹ, ông muốn giúp người dân ở đồng bằng sông Cửu Long chống biến đổi khí hậu. Ảnh: AP
Đây là lần đầu tiên Kerry trở lại vùng đồng bằng sông Cửu Long dù ông đã trở lại Việt Nam 13 lần từ năm 1969. Ông cho rằng, sông Mekong là tài sản chung của nhiều nước, vì thế không nước nào được phép khai thác theo cách vô trách nhiệm khiến nước khác chịu ảnh hưởng xấu. Ảnh: Bộ Ngoại giao Mỹ.
"Vài thập kỷ trước, trên dòng sông Mekong, tôi là một trong số nhiều người phải chứng kiến giai đoạn khó khăn trong lịch sử của hai đất nước chúng ta. Giờ đây, cũng trên dòng sông này, tôi đã chứng kiến thành quả của sự hợp tác giữa hai nước", ông nói trong chuyến đi. Ảnh: Reuters
Những đứa trẻ ở một xóm ven sông ngắm chiếc ca nô chở Ngoại trưởng Mỹ trên sông. Ảnh: Bộ Ngoại giao Mỹ.
Dòng sông phản chiếu lên kính của Kerry. Khi ca nô di chuyển trên sông Cái Nước, ông nói với người hướng dẫn: "Tôi đã lướt trên dòng sông này nhiều lần. Kerry cũng nói rằng ông vẫn nhớ rõ mùi củi cháy từ những ngôi nhà bên sông Mekong. Mùi đó không hề thay đổi sau hơn 4 thập kỷ. Ảnh: AP
Kerry cùng đoàn lên bờ để thăm ấp Kiến Vàng, thị trấn Rạch Gốc, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau. Ảnh: Reuters
Đột nhiên ông bước vào một cửa hàng tạp hóa trong ấp để mua kẹo cho trẻ em. Ảnh: AP
Sau khi phát bánh, kẹo cho những đứa trẻ trong cửa hàng, Kerry nói với các em bằng mấy câu tiếng Việt. Ảnh: Reuters
Người chủ cửa hàng tạp hóa tỏ ra bất ngờ khi Ngoại trưởng Mỹ bắt tay. Ảnh: AP
Kerry ngắm những con gà trong một nhà dân ở ấp Kiến Vàng, thị trấn Rạch Gốc, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau. Ảnh: Reuters
Người đứng đầu ngành ngoại giao Mỹ trò chuyện với các sinh viên trước khi đọc một bài phát biểu tại xã Tân An Tây, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau. Trong bài phát biểu, ông tuyên bố Washington sẽ viện trợ 17 triệu USD thông qua Cơ quan phát triển quốc tế Mỹ (USAID) để giúp người dân vùng đồng bằng sông Cửu Long “giảm thiểu và thích nghi với quá trình biến đổi khí hậu”. Ảnh: Bộ Ngoại giao Mỹ.
Mối đe dọa của biến đổi khí hậu là đề tài mà Kerry đề cập trong bài phát biểu trên bờ sông của ông. Ảnh: Bộ Ngoại giao Mỹ.
Sau khi đọc bài phát biểu tại xã Tân An Tây, Kerry vẫy chào tạm biệt mọi người và trở về ca nô. Nhìn về phía những đám cây hai bên sông, ông bình luận: "Nhiều thứ vẫn thế, chẳng thay đổi". Ảnh: Reuters
Ngoại trưởng Kerry thăm vùng đồng bằng sông Cửu Long
Ngoại trưởng Kerry thăm vùng đồng bằng sông Cửu Long
"Thật lạ," ông Kerry trả lời khi được hỏi về cảm giác của ông khi thăm lại dòng sông này.
Chiếc thuyền chở Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry chạy dọc trên dòng nước đục ngầu của sông Cái Nước trong vùng đồng bằng của sông Cửu Long, dòng sông lớn thứ 12 của thế giới. Đây là nơi ông đã từng chỉ huy một tàu tuần tra của Hoa Kỳ trong thời chiến tranh Việt Nam.
Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry (phải) và phó giám đốc Viện Nghiên cứu Phát triển Đồng bằng Sông Cửu Long Đăng Kiều Nhân trong chuyến đi thăm đồng bằng sông Cửu Long
Tuy nhiên hồi tưởng quá khứ không phải là lý do duy nhất khiến Ngoại trưởng Mỹ trở lại thăm vùng đất xa xôi này. Ông đến nơi này để chuyển một thông điệp về mối đe dọa ngày càng gia tăng của tình trạng khí hậu biến đổi và tác động của nó đối với vùng đồng bằng và đối với hàng triệu người mà những nhu cầu của cuộc sống lương thực, thực phẩm, nước và giao thông vận tải phụ thuộc vào dòng sông này.
Đây là lần đầu tiên, ông Kerry trở lại vùng đồng bằng sông Cửu Long kể từ năm 1968, thời gian ông từng là sĩ quan hải quân trẻ phục vụ trong quân đội Mỹ trong cuộc chiến ở Việt nam. Ông đã được trao một Chiến Thương Bội Tinh, một Ngôi Sao Bạc, và một Ngôi Sao Đồng trong cuộc chiến này.Nói chuyện với các học sinh sinh viên tụ tập trên bờ sông Cái Nước, ông nhận xét, “Thật là tuyệt hôm nay tôi có mặt nơi đây. Mấy mươi năm trước, chính trên dòng sông này, tôi là một trong nhiều người chứng kiến thời kỳ khó khăn trong lịch sử 2 nước chúng ta. Hôm nay cũng tại nơi này tôi đang chứng kiến đất nước của chúng ta đang tiến đến với nhau và bàn về tương lai. Đó là chiều hướng cần có, Trong khi cuộc hành trình chung của chúng ta tiếp diễn, chúng ta sẽ hướng mắt về tương lai chứ không phải là quá khứ.”
Ông ăn mặc giản dị với áo màu xanh da trời, quần kaki xanh và đeo kính râm. Các phụ tá và các giới chức đứng quanh ông nhưng phần lớn thời gian trên thuyền ông im lặng và trầm ngâm. Tuy nhiên có một lúc trong chuyến đi ông nhận xét, “Không có thay đổi nhiều lắm.” Mùi củi cháy quen thuộc từ những làng mạc khiến ông hồi tưởng thời gian ông có mặt trên dòng sông này.
Ông thích thú ngắm nhìn một cái chuồng gà.
Tại ấp Kiến Vàng nằm bên bờ sông, Ngoại trưởng Mỹ đã dừng lại để trò chuyện, thăm một cửa hàng nhỏ mua kẹo cho trẻ em. Một chú chó nhắc ông nhớ đến lúc còn trong quân đội ở Việt Namông cũng đã nuôi một con và đặt tên là “VC”.
Ông cũng hỏi thăm ông Đặng Kiều Nhân, phó giám đốc Viện Nghiên cứu Phát triển Đồng bằng Sông Cửu Long, về mực nước và những thay đổi lưu lượng nước có thể ảnh hưởng ra sao đối với người dân.Mối quan tâm của ông không chỉ là những ảnh hưởng của khí hậu biến đổi đối với dòng sông mà còn về các kế hoạch của Trung Quốc xây thêm 4 đập nước dọc theo sông để sản xuất điện cho nền kinh tế đang phát triển của nước này, các dự án này, theo các chuyên gia về môi trường, sẽ tác động tai hại đến Campuchia và Việt Nam nằm trong vùng hạ lưu sông.
Ngoài ra Lào cũng đang đề xuất việc xây các nhà máy thủy điện trên sông, trong khi Campuchia có kế hoạch xây 2 đập nước trên sông.
Trong một bài phát biểu, Ngoại trưởng Mỹ nói với các sinh viên về các triển khai này, và hứa cung cấp ngân khoản 17 triệu đôla cho một chương trình nhằm giải quyết tác động tiềm năng do tình trạng khí hậu biến đổi.
Ông nói: “Không một quốc gia nào có quyền tước đoạt của một nước khác nguồn sinh kế, hệ sinh thái và khả năng sống đến từ dòng sông. Dòng sông đó là tài sản toàn cầu, một của cải thuộc về khu vực, và vì vậy điều quan trọng là chúng ta tránh những thay đổi đáng kể đối với lưu lượng và trầm tích của dòng sông. Chúng ta đã thấy hoạt động đánh bắt cá đang đứng trước mối đe dọa về nguồn cá cũng như hậu quả của những thay đổi đang diễn ra.”
Ngoại trưởng Kerry nói ông sẽ nêu vấn đề này khi ông đến thăm Trung Quốc, “để chúng ta có thể cùng hành động một cách hiệu quả.”
Liệu mấy anh cán bộ đứng cạnh Kerry có hiểu những gì Kerry thao thao bât tuyệt không nhỉ?
(http://baomai.blogspot.com/2013/12/ngoai-truong-kerry-tham-vung-ong-bang.html)
Mỹ chỉ muốn trấn an VN và Philippines
Ông John Kerry sẽ thăm Việt Namvà Philippinestrong dịp này
Chuyến thăm của Ngoại trưởng Mỹ tới Việt Nam và Philippines chủ yếu có mục đích 'trấn an' hai quốc gia về cam kết của Mỹ ở khu vực, nhất là trước các động thái ngoại giao, quân sự được cho là 'lấn lướt' của Trung Quốc ở Biển Đông, theo ý kiến nhà quan sát.
Gần đây do những hạn chế đối nội, Hoa Kỳ đã có sự thuyên giảm ít nhiều sự hiện diện ngoại giao của mình ở khu vực, trong khi Trung Quốc liên tục có các động thái 'tranh thủ lấn lướt,' chuyến đi của ông John Kerry do đó có mục tiêu tái khẳng định sự hiện diện của Mỹ, theo Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, nhà nghiên cứu từ Đại học George Mason, Hoa Kỳ.
Theo Giáo sư Hùng, tiếp sau sự kiện công bố vùng nhận diện phòng không mới ở Biển Hoa Đông, Trung Quốc đang có các dấu hiệu thực thi các chính sách 'ngoại giao' áp đặt ngay tại Biển Đông mà Việt Nam và cả Philippines đều quan ngại.
Ông nói: "Vùng này có hai việc quan trọng. Thứ nhất, sự hiện diện của tàu sân bay là áp lực hải quân, và thứ hai là (Trung Quốc) có thể có triển vọng lập vùng nhận diện phòng không, là áp lực không quân,
"Thành ra chỗ này, các nhà học giả người ta cho chính sách của Trung Quốc là chính sách ngoại giao lấn lướt, áp đặt, ông (Trung Quốc) cứ áp đặt dần dần, để áp đặt sự đã rồi, thành ra cái đó khiến cho Việt Nam và những nước, thứ nhất như Phi-luật-tân quan tâm."
Nhà nghiên cứu nhắc tới hai chuyến thăm mới đây của hai quan chức Hoa Kỳ được cho là có tính chất 'tiền trạm' đối với chuyến thăm của ông Kerry tới Việt Nam, có liên quan tới hai quan tâm của Mỹ với quan hệ với Việt Nam là hợp tác kinh tế và an ninh.
'Điều kiện nguyên tắc'
Bà Chi Lan cho rằng cả Mỹ và Việt Nam đều đang quan tâm tới hợp tác kinh tế, đặc biệt là đẩy mạnh TPP
Ông nói: "Trước khi ông Kerry đi, là phụ tá an ninh quốc gia về an ninh kinh tế đã sang Việt Nam và thảo luận vấn đề TPP (Thỏa thuận đối tác xuyên Thái Bình Dương) rồi,
"Thứ hai, về quân sự, trước khi ông Kerry đi, Đô đốc, Tư lệnh Thái Bình Dương cũng sang Việt Nam nói chuyện đó, thành ra đó là hai quan tâm lớn nhất giữa Mỹ và Việt Nam bây giờ."
Về vấn đề nhân quyền với Việt Nam, Giáo sư Hùng cho rằng mặc dù hiện nay địa hạt này chưa được đặt là nội dung ưu tiên trong chuyến thăm, nhân quyền sẽ vẫn luôn là một nguyên tắc điều kiện, nếu Việt Nam muốn đẩy cao quan hệ giữa hai nước, nhất là trong lĩnh vực hợp tác quân sự và mua bán vũ khí.
Ông nói với BBC hôm 12/12/2013: "Chúng ta thấy rằng tất cả các lãnh đạo Mỹ đều nói không thể có chuyện đó, nếu vấn đề nhân quyền không giải quyết thỏa đáng.
"Tuy rằng nhân quyền không phải là vấn đề quan trọng nhất trong giai đoạn này, nhưng chuyện đó là cái không thể có được nếu sự quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam tiến thêm một bước nữa."
Cũng hôm thứ Năm, bà Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Ban Cố vấn Thủ tướng Chính phủ cũng cho rằng hợp tác kinh tế và an ninh khu vực sẽ là trọng tâm thương thảo giữa hai bên trong chuyến thăm của ông Kerry.
Bà nói:"Những người lãnh đạo như ông John Kerry đi bao giờ cũng sẽ bàn vào những vấn đề lớn, tôi cho là trước mắt hiện nay, thí dụ như làm sao để thúc đẩy cho Hiệp định xuyên Thái Bình Dương TPP có thể sớm thành công được."
Về trọng tâm an ninh khu vực, bà Chi Lan bình luận thêm:
"Về vấn đề an ninh ở trong khu vực, cũng có nhiều cái để bàn và Việt Nam cũng mong muốn có sự hợp tác của Mỹ, cũng như là Mỹ, tôi tin là sẽ tiếp tục khẳng định mối quan tâm của mình, cũng như trách nhiệm của mình ở trong khu vực."
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho hay, trong chuyến thăm tới khu vực Đông Nam Á lần này, ông Kerry sẽ thăm Việt Nam và Philippines, hai quốc gia đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi trận bão Hayan mới đây.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét