Từ các nhà giả kim thuật cổ đại cho đến những nhà hóa học hiện đại, con người luôn tìm cách tạo ra những sản phẩm hóa học từ cuộc sống. Tuy nhiên, không phải tất cả các sản phẩm đó đều phục vụ lợi ích nhân loại. Một trong những sản phẩm hóa học nguy hiểm nhất, mang đến cái chết cho con người và đe dọa sự tồn vong của nhân loại chính là vũ khí hóa học.
Vũ khí hóa học là loại vũ khí sử dụng chất hóa học gây tổn thương, nguy hại trực tiếp cho người, động vật và cây cỏ. Vũ khí hóa học là một trong những loại vũ khí hủy diệt lớn gây chết người hàng loạt. Vũ khí hóa học dựa trên đặc điểm độc tính cao và gây tác dụng nhanh của chất độc quân sự để gây tổn thất lớn cho đối phương.
Ngay từ thời cổ đại, con người đã biết sử dụng vũ khí hóa học. Từ những mũi tên tẩm thuốc độc đến những loại khí gây ảnh hưởng đến hệ hô hấp và thần kinh đối phương, hơn nữa là những loại chất độc phát tán trong nguồn nước dùng để giết chết hàng loạt trên quy mô lớn.
Bốn ngàn năm trước đây, những khí độc hóa học đã được sử dụng một cách phổ biến trong chiến tranh tại vương quốc Vệ Đà, Ấn Độ. Người Hy Lạp, người La Mã, người Sparta cổ đại cũng biết sử dụng các tác nhân hóa học để gây hư phổi, mù mắt, phá hủy dạ dày và cháy da đối phương.
Tuy nhiên, vũ khí hóa học được sử dụng phổ biến nhất từ thế kỷ 20, đặc biệt là trong hai cuộc đại chiến thế giới, trong chiến tranh Việt Nam và một số cuộc chiến khác. Chúng đã gây ra hàng loạt vụ thảm sát trên quy mô lớn. Nhận thấy được sự hủy diệt tàn bạo và khủng khiếp của các vũ khí này, các quốc gia trên thế giới đã kí nghị định thư về việc cấm sử dụng các loại khí độc, các vũ khí sinh học trong chiến tranh bắt đầu từ năm 1925. Tuy nhiên, các quốc gia lớn vẫn đang tìm cách tạo ra những loại vũ khí hóa học mới nhằm đảm bảo vị trí cường quốc của mình.
Hãy cùng điểm qua những loại vũ khí hóa học nguy hiểm nhất mọi thời đại. 1. 1. VX: VX (chất hóa học), tên IUPAC O -ethyl S - 2 - (diisopropylamino) ethyl] methylphosphonothioate. Đây là một trong những vũ khí hóa học được sử dụng phổ biến nhất. Do vậy, nó được Liên Hợp Quốc liệt vào hàng những vũ khí hủy diệt hàng loạt theo nghị quyết 687. Việc sản xuất và tàng trữ VX được đặt ra ngoài vòng pháp luật của Công ước vũ khí hóa học năm 1993. Ảnh: Công thức của VX.
Nó được nước Anh phát triển đầu tiên vào những năm 1950 tại phòng thí nghiệm Porton Down. Năm 1958, công thức của nó được trao cho Mỹ trong một thỏa thuận để đổi lấy những bí mật khoa học của vũ khí nhiệt hạch. Nó được Mỹ sản xuất trên quy mô lớn vào năm 1961. VX là một loại chất hóa học lỏng, giết chết nạn nhân bằng enzym exetylcholinesterase với độ mạnh bằng 10 lần của sarin. Ảnh: Nạn nhân khí VX.
Việc tiếp xúc của da với chất lỏng VX gần như chắc chắn là gây tử vong nếu không được rửa ngay lập tức, và nguy hiểm hơn thế nữa, độ bền của nó cho phép chất độ này tồn tại trong môi trường lạnh nhiều tháng. Ảnh: Nạn nhân VX.
Quân đội Mỹ diễn tập với khí VX thật.
Triệu chứng: Huyết áp tăng hoặc giảm đột ngột, mờ mắt, tức ngực, ho, tiêu chảy, chảy dãi, ra mồ hôi quá nhiều, buồn ngủ, đau mắt, nhức đầu, đi tiểu nhiều, đau bụng, thở nhanh, chảy mũi, suy tim, co giật, mất ý thức, liệt, suy hô hấp… Ảnh: Thùng chứa VX.
2. Novichoks: Trước khi Chiến tranh Lạnh kết thúc và việc ký hết Công ước về vũ khí hóa học diễn ra năm 1997, Liên Xô đã âm thầm phát triển một vũ khí hóa học mới, mạnh gấp 10 lần VX của Anh – Mỹ và được gọi là Novichoks. Ảnh: Bom mang Novichoks.
Người ta không được biết nhiều về loại vũ khí hóa học này cho đến năm 1992, các tiết lộ về Novichoks được đăng tải trên Moscow Time bởi nhà hóa học Vil Mirzayanov. Ảnh: Cấu trúc lập thể của Novichoks.
Triệu chứng: Huyết áp bất thường thấp hoặc cao, mờ mắt, tức ngực, rối loạn, ho, tiêu chảy, chảy nước dãi, mồ hôi quá nhiều, buồn ngủ, đau mắt, nhức đầu, đi tiểu nhiều, buồn nôn, nôn, đau bụng, thở nhanh, chảy nước mũi, nhịp tim nhanh hoặc chậm thất thường, chảy nước mắt, yếu, co giật, mất ý thức, liệt, suy hô hấp. Ảnh: Công thức Novichoks.
Quân đội Liên Xô diễn tập với chất độc Novichoks.
Soman gây tử vong nhiều hơn và dai dẳng hơn Sarin hoặc Tabun, nhưng ít hơn so với Cyclosarin.
3. Cyclosarin: Cyclosarin hay GF (xyclohexylmethylphosphonofluoridate) là một chất cực kỳ độc sử dụng như một vũ khí hóa học. Nó là một thành viên của G-series, một nhóm các vũ khí hóa học phát hiện và tổng hợp bởi một nhóm các nhà khoa học Đức dẫn đầu bởi Tiến sĩ Gerhard Schrader. Khí thần kinh chủ yếu là các agent G, Sarin (GB), Soman (GD), Tabun (GA), và các agent V như VX. Ảnh: Công thức của GF. Các agent ban đầu, Tabun, được phát hiện ở Đức vào năm 1936 trong quá trình làm việc trên phốt pho hữu cơ thuốc trừ sâu. Tiếp đến Sarin, Soman và cuối cùng là chất độc hại nhất, Cyclosarin, một sản phẩm của phòng thí nghiệm thuốc trừ sâu thương mại trước khi Chiến tranh thế giới thứ 2 nổ ra. Ảnh: Người tị nạn Kurd ở Iraq trong cuộc tấn công hóa học năm 1988. Như những thế hệ chất độc trước của nó như Tabun, Sarin và Soman, độc thần kinh G-series này sẽ phá vỡ giao tiếp giữa các cơ quan và bộ não. Không chỉ gây chết người hơn Sarin gấp năm lần, Cylosarin cũng bền hơn gấp năm lần. Ảnh: Vũ khí mang Cyclosarin. Triệu chứng: Chảy nước mũi, chảy nước mắt, đau mắt, mờ mắt, chảy nước dãi, mồ hôi ra quá nhiều, ho, tức ngực, thở nhanh, tiêu chảy, buồn nôn, nôn, đau bụng, đi tiểu nhiều, buồn ngủ, suy nhược, đau đầu, nhịp tim đập nhanh hoặc chậm bất thường, huyết áp thấp hoặc cao, mất ý thức, co giật, liệt, suy hô hấp, khó thở, co thắt cơ, bất tỉnh. Ảnh: Cyclosarin cấu trúc lập thể. 4. Soman: Soman, hoặc GD (tên hệ thống: O-Pinacolyl methylphosphonofluoridate), là một chất hóa học cực kỳ độc hại. Nó là một tác nhân thần kinh, can thiệp vào hoạt động bình thường của động vật có vú hệ thần kinh bằng cách ức chế các enzym cholinesterase. Ảnh: Một công nhân trong nhà máy sản xuất Soman thời Thế chiến thứ 2. Nó là một chất ức chế gồm acetylcholinesterase và butyrylcholinesterase. Là một vũ khí hóa học, nó được phân loại như là một vũ khí hủy diệt hàng loạt của Liên Hợp Quốc theo Nghị quyết của Liên Hợp Quốc 687. Nhà hóa sinh người Đức Richard Kuhn phát hiện ra công thức “chết người” của Soman vào năm 1944, chỉ 6 năm sau khi giành giải Nobel Hóa học cho công việc của mình trên carotenoid và vitamin. Ảnh: Cấu trúc lập thể của Soman. Nó là một chất lỏng dễ bay hơi, ăn mòn và không màu có mùi nhẹ khi tinh khiết. Thông thường, nó là một chất có màu vàng sang màu nâu và có mùi mạnh như long não. Soman gây tử vong nhiều hơn và dai dẳng hơn Sarin hoặc Tabun, nhưng ít hơn so với Cyclosarin. Ảnh: Quân đội Đức quốc xã với xe đạp gắn súng phun chất độc Soman năm 1939. Triệu chứng: Chảy nước mũi, chảy nước mắt, đau mắt, mờ mắt, chảy nước dãi, mồ hôi ra quá nhiều, ho, tức ngực, thở nhanh, tiêu chảy, buồn nôn, đau bụng, đi tiểu nhiều, lẫn lộn, buồn ngủ, suy nhược, đau đầu, tim đập tốc độ chậm hoặc nhanh, huyết áp thấp hoặc cao, mất ý thức, co giật, liệt, suy hô hấp. Ảnh: Công thức "chết người" của Soman. 5. Sarin: Sarin hay GB, (O-Isopropyl methylphosphonofluoridate) là một chất độc cực mạnh được dùng làm vũ khí hóa học. Nó được Liên Hợp Quốc xếp vào loại vũ khí hủy diệt hàng loạt. Việc sản xuất và tích trữ Sarin bị cấm bởi Hiệp định Vũ khí hóa học năm 1993. Ảnh: Bom Sarin. Sarin có cấu trúc và tác động sinh lý tương tự như một số loại chất được sử dụng trong thuốc trừ sâu, như malathion, carbamate, đồng thời có tác động sinh lý như Mestinon, Neostigmine và Antilirium được dùng trong y học. Ở nhiệt độ trong phòng, Sarin là một chất lỏng không màu, không mùi. Ảnh: Nạn nhân của Sarin. Năm 1988, quân đội Saddam Hussein đã giết 5.000 người Kurd, Iraq bằng Sarin. Triệu chứng: Chảy nước mũi, chảy nước mắt, đau mắt, mờ mắt, chảy nước dãi, mồ hôi quá nhiều, ho, tức ngực, thở nhanh, tiêu chảy, buồn nôn, đau bụng, đi tiểu nhiều, lẫn trí, buồn ngủ, suy nhược, đau đầu, mất ý thức, co giật, liệt, suy hô hấp. Ảnh: Tên lửa mang Sarin. Tên lửa mang Sarin. Thùng chứa Sarin. Công thức hóa học của Sarin. |
0 nhận xét:
Đăng nhận xét