Thứ Sáu, 3 tháng 1, 2014

Chắp cánh cho đời con bay cao

Chắp cánh cho đời con bay cao 
Tác giả: Helen Vũ 
Chuyến bay thẳng từ phi trường Los Angeles sang Washington D.C. sáng nay có một cô bé trùm áo khoác đen, ngồi lọt thỏm trong ghế ở hàng đầu. Cử nó sang làm việc và dự khóa huấn luyện đặc biệt ở trụ sở chính (“headquarter”) của công ty, mà “sếp” lớn báo trước chỉ có mấy tiếng đồng hồ. Cô thư ký chuyên việc hành chính không tìm ra vé hạng “thương gia” nên mua ngay vé khứ hồi này cho nó. 
Cha vẫn đau đáu theo con gây dựng đời sống mới. 
Giữa những gương mặt đạo mạo và sang trọng trong khoang nhất lọt vào một bé “hạt tiêu,” làm bà vợ quý phái của ông khách kề bên nó tò mò. Bà nghiêng đầu sang bên hỏi nó:

- Hello, young lady! What brings you up here, going to D.C.?
(Chào cô em! Cái gì đưa em lên đến tận đây, đi mãi đến D.C.?)
- The wings, right beneath my arms!
(Những đôi cánh, ngay dưới cánh tay tôi đây nè!)

Nó nửa đùa nửa thật trả lời. Bà khách gật gù ra chiều đồng tình với câu trả lời của cô bé Á Châu nhỏ nhắn mang kính cận dày cộp, kè kè cái máy điện toán cá nhân nơi chân. Khi máy bay tăng tốc, rời đường băng bay lên cao, cô bé tựa đầu vào lưng ghế da êm ái, chợp mắt trong chốc lát. Nhớ lại câu hỏi của bà tóc vàng kia, ký ức về những năm tháng đầu tiên trên xứ người của nó chợt ùa về...

 Chuyến bay mang Ba và bốn chị em nó cùng nhiều gia đình “HO” tỵ nạn chính trị khác đến phi trường Los Angeles vào một tối đầu Thu năm 1992. Trên xa lộ lấp loáng đèn xe ngược xuôi, chiếc xe buýt lao vun vút đưa gia đình nó về phi trường Ontario, gần nơi bác Tăng, người bảo trợ nhà nó thông qua hội thiện nguyện World Relief, đang sống. Máy bay đến trễ nên vợ chồng chú Ðức “đường” và cô Ðào-chú Sanh cùng mấy người con đã chờ từ chiều, tốn khẳm tiền đậu xe, đến khuya mới đón được nhà nó. Qua giây phút mừng vui được gặp lại nhau ở xứ tự do, cả đoàn kéo về nhà cô B. cho bữa cháo gà khuya. Dẫu sau này trong đời được ăn nhiều gà ngon, với nó đây là tô cháo gà ngon nhất. Cô B. mang mền gối cho cha con nó ngủ lại trong phòng khách ấm áp của nhà cô. Ðêm đầu tiên ở vùng đất mới, cha con nó thiếp đi trong bình an, dẫu cho những ngày mai có bão bùng mưa gió...

Bác Tăng nhờ vợ chồng chú Ðức mướn căn hộ trước nhà chú cho gia đình nó, và sáng hôm sau cha con nó lạ lẫm cầm chìa khóa bước vào “nhà” mới. Chú Ðức mua giùm một tủ lạnh cũ, nhờ chồng cô B. chở về để sẵn trong bếp. Vợ chú mua giùm nồi cơm điện, bao gạo, và mang sang năm cái chén, cùng đũa từ bà hàng xóm gửi sang “chia” cho. Cô Ðào xin cho hai tấm nệm cũ, để ngay trên thảm nơi hai phòng ngủ tầng trên. Một cái tủ đựng quần áo loang lổ trắng có các hộc tủ lỏng lẻo chực rớt, được chú Sanh khiêng ở đâu về cho, làm vách ngăn phòng khách và bếp. Cùng với mấy thùng đựng sách vở, quần áo và “album” hình kỷ niệm của gia đình nó khiêng từ Việt nam sang, đó là tất cả tài sản, và là Nhà của cha con nó. Căn hộ nhỏ này ở trong một khu phố tồi tàn có nhiều nhà Mỹ đen, ngờ đâu gắn bó với gia đình nó hơn mười năm trời, cho đến khi tất cả anh chị em nó đều “công thành danh toại” trên vùng đất mới.

Những ngày sau đó, chú Ðức, chồng cô B., và gia đình cô chú Sanh-Ðào, những người rành đường đi nước bước vì sang Mỹ sớm hơn gia đình nó, thay nhau chở giúp gia đình nó đi làm giấy tờ xin số an sinh, trợ cấp xã hội, khám sức khỏe, và đi chợ mua thức ăn. Chính phủ Mỹ chỉ trợ giúp sáu tháng cho các gia đình tỵ nạn chính trị, nên chị em nó lo lắng từng ngày, mong tìm được việc làm để ổn định cuộc sống rồi mới tính chuyện “đường dài” học hành như cả nhà nó ước mong. 

Gần ba tuần sau, bà hàng xóm tốt bụng (đã cho cha con nó mấy cái chén) nhờ chị Thu Lan, hàng xóm của bà, đưa chị em nó ra “shop” may tìm việc. May thay, hãng may chị làm vừa đổi chủ; chủ cũ mang thợ đi theo, nên chủ mới nhận chị em nó ngay lập tức. Kinh nghiệm may áo dài của chị nó và thợ “vịn” tay mơ của nó ngày xưa trên máy may Singer cọc cạch ở quê nhà không đủ để chạy theo tốc độ 6,000 rpm của máy may công nghiệp Juki. Ngày đầu, chị em nó được Ngọc, bà chủ trẻ xinh đẹp giao đồ dễ, và chị Lan chỉ giúp rị mọ ráp hàng may. Anh trai chị Lan chở cho đi vài bữa, rồi chị em nó tự đi bộ về mỗi sáng-tối đến hãng may, phía sau vườn dâu trên đường Holt ở thành phố Pomona.

Ngay góc đường Holt và Ramona có tiệm đồ cũ, mà người trong hãng may gọi đùa là “chợ cũ Hồng Kông,” là nơi chị em nó lục lọi mua được những nồi niêu, chén bát đĩa cũ còn tốt, và quần áo ấm mùa Ðông cho cả nhà. Nó mày mò đếm những đồng “penny,” “nickel,” “quarter” đầu tiên trong đời, khi được người ta trả lại tiền lẻ, vì... nó không biết đếm! Chị em nó “trung thành” với tiệm đồ cũ ấy gần mười năm, vì tiền may đồ còng lưng ngày đêm được đếm từng đồng. 

Ðược hàng xóm chỉ cho chợ trời gần đường Ramona, cha con nó lần hồi mua thêm được nhiều thứ cần thiết, cũ nhưng còn tốt, và rẻ. Cha con nó mua được năm cái túi ngủ - mùa Hè mở dây kéo ra thành mền, mùa Ðông chui vô ngủ trong túi ấm áp như con tằm trong tổ kén. Cái túi ngủ màu hồng pha sọc xanh lá cây mà Ba mua cho nó ngắn chủn, đã ủ ấm nó bao nhiêu mùa đông, cho đến khi nó rời nhà đi xa. Cái túi in đầy chứng tích những tháng năm may đồ ở nhà của chị em nó: Sáng thức dậy bò ra khỏi “mền,” nó thò tay bật khởi động cho nóng máy may, nấu rồi ăn vội vàng giữa bộn bề hàng may, rồi may cố đến đêm thì bò vô túi ngủ, mặc cho chỉ vương đầy quần áo tóc tai. Lâu ngày, chỉ vụn quấn chằng chịt mặt trong của túi ngủ, đủ mọi sắc màu!

Trả nợ sách đèn. 

Xấp nhạc tiền chiến in đẹp mang theo từ Việt Nam được cất dưới cái nệm cũ (gãy lò xo mà nó không biết). Hôm dựng nệm lên để hút thảm, thấy xấp nhạc bị đâm nham nhở, nó rớt nước mắt thương cho nhạc, cho chút kỷ vật ít ỏi mang sang xứ người của nó. Ði làm về theo hẻm ngõ sau, nó thấy một tấm nệm khác còn tốt dựng cạnh thùng rác. 

Nó ba chân bốn cẳng chạy về gọi anh chị ra phụ khiêng “nệm mới” về, rồi vất tấm gãy kia đi. Hôm sau nắng to, chị em nó hì hụi vác “nệm mới” ra sân, xịt nước, chà xà-bông, giội rửa lại, rồi dựng nơi vách tường cả ngày cho khô. Chiều chạng vạng, nó nghe tiếng chạy rầm rập lên thang kề bên, có vẻ nặng nề lắm. Ngó ra sân, thấy mất tiêu tấm nệm, nó biết ngay thủ phạm là hai đứa Mỹ đen trẻ mới dọn tới. Nó đập cửa ầm ầm, quát to:

- Open the door! Bring it down here! Give back my mattress!
(- Mở cửa! Khiêng xuống! Trả tui tấm nệm ngay!)
Một thằng ló đầu ra, tiu nghỉu:
- Sorry! I thought you threw it away!
(- Xin lỗi, tui tưởng bà quăng đi!”)
- Are you dreaming?!”
(- Mi mơ hả?!)
Hai tên đành tẽn tò khiêng cái nệm xuống lầu trả lại.

Nghe kể thương quá, cô Vân và dượng Chánh từ xa về thăm, chở cho cái nệm nhỏ mới tinh và mấy bao to quần áo, còn gạo và thức ăn đầy cả thùng xe tải của dượng thì cha con nó ăn cả tháng chưa hết.

Thu sang Ðông, trời lạnh dần và hay mưa. Chị em nhà nó nhiều lần lội mưa đi-về, nhưng thỉnh thoảng được anh Nhật “Qua-cơn-mê” ghé đón tụi nó và chị Lan đi may. May ở hãng được ba tháng, quen việc quen người nên bà chủ đứng ra mua giùm một máy may và một máy may-vắt sổ-5-sợi Juki, để chị em nó nhận hàng may ở nhà, cho đỡ lạnh và may được nhiều hơn. Một lượng vàng chỉ bốn trăm đô; bà dám bỏ ra gần hai ngàn rưởi cho tụi nó may trả góp lại mỗi tháng, mà chỉ lấy cái biên nhận mua máy để khai thuế cuối năm. Ngoài bà chủ hãng may tốt bụng, cha con nó còn được người quen thương giúp. 

Bác sĩ Bảo, đồng nghiệp cũ và từng là bạn “tù cải tạo” của ba nó, đưa vợ con đến thăm cha con nó, và chở hết ra nhà hàng đãi đằng. Nghe nó than trời lạnh nên ăn gì cũng lạnh, ngày hôm sau chú đến tận hãng may, mang tặng cho cái máy vi sóng mới tinh. Máy này đã giúp Ba nó hâm nóng những bữa trưa một mình khi tụi nó đi làm vắng nhà, làm nóng cơm tối cho chúng nó khi đi học hay đi làm về khuya lắc, và theo cha mẹ nó gần hai mươi năm. Khi rời California sang Texas “dưỡng già,” Ba Mạ nó gửi nhà thờ chuyển cho một gia đình nghèo khác. Gia đình nó luôn ghi nhớ tấm chân tình bảo bọc cho đời sống của người đến sau ấy của Bác Sĩ Bảo.

Vài ngày sau khi tụi nó đi may, anh và em trai nó cũng được hàng xóm dẫn vô hãng khác xin việc ủi đồ và cắt chỉ cho các hàng may xong sắp giao đi. Ủi trong mùa Ðông còn đỡ, lúc mùa hè nóng như thiêu, hơi nước từ bàn ủi công nghiệp xông lên hầm hập trong cái “lò bát quái” xưởng may chỉ có vài cây quạt thổi gió nóng lòng vòng. Hai thằng con trai lớ ngớ được chỉ cho đứng ủi; Tiền công mỗi cái chỉ vài “cents,” nên mỗi ngày phải cố ủi hàng trăm cái mới may ra đủ sống. Bàn tay trắng trẻo thư sinh của anh nó bị mấy lần ủi phỏng thành sẹo, mấy năm chưa phai. Thằng út mang kính dày cộp, lui cui phụ cắt chỉ cho sạch các hàng đã ủi để kiếm thêm tí tiền, đầu cổ tóc tai vương đầy chỉ vụn.

Ba nó đi thăm hàng xóm, lăn về được một mặt bàn gỗ cũ, tròn to màu nâu vec-ni, mà ai vất ở sau đường hẻm. Lâu sau, lượm được một khung chân bàn, Ba nó hì hục khiêng về, gắn thêm ba con ốc với mặt bàn cho chắc. Mua thêm mấy cái ghế cũ, cha con nó được cái bàn ăn tươm tất. Cái bàn ăn có ba con ốc lồi lên đó đã chứng kiến những bữa cơm sum họp hiếm hoi của gia đình nó, trước khi chia lìa đi khắp chốn. Cái bàn ấy cũng là nơi chị em nó chong đèn ngồi học miệt mài, và nơi anh nó viết nháp bài đáp từ cảm ơn trong lễ nhận giải thưởng học bổng danh dự cao quý nhất của trường đại học cộng đồng, chỉ sau một năm theo học.

Những năm tháng đầu tiên khi mới qua Mỹ, vì Mạ nó kẹt lại Việt Nam một thời gian, Ba nó như hụt hẫng đi rất nhiều vì không có Mạ nó chăm lo cho miếng ăn, giấc ngủ, dù rằng chị em nó đều đã trưởng thành, biết lo việc bếp núc từ lâu. Chắt chiu tiền trợ cấp mấy tháng của cả nhà, Ba nó nằng nặc đòi mua chiếc xe Cressida '84 của ông B. ăn tiền “cò” giới thiệu. Mua nhằm xe nát, xe chưa lái về tới nhà đã hư nhiều, làm tốn tiền sửa thêm. Ðêm Giao thừa, xe chết ngắt ngay dốc đường Garey nên phải nhờ dượng Chánh đẩy giùm đi mà vẫn chết máy mấy lần, rồi cháy máy. Ba nó ôm đầu, ngồi thẫn thờ ngó vô đêm tối. Có một ngày mùa đông, chị em nó vừa khóc vừa cóng tay giặt rồi phơi lên sợi dây giăng sau hè những miếng vải của một lô hàng may, mà trong một phút nóng giận không kiềm chế được, Ba nó đã hắt cả tô bún bò Huế sóng sánh nước màu vô. Di chứng của nhiều năm tháng tù đày đã làm Ba nó thành người khác.

Khi Mạ nó qua, chị em nó được xuống chức phụ bếp, vì đi làm ngoài nhiều hơn và đi học lại. Nó để dành tiền, mua được chiếc xe Geo Prizm '91 cũ, từ người đi đấu giá xe về sửa lại. Xe này là “chân” đưa nó đi làm, đi học, chị em chở nhau đi khắp chốn. Cuối tuần chị em nó chở Mạ đi chợ, xong về chúi mũi học bài, đọc sách. Chị em nó vừa làm vừa học nên toàn đi sớm, về trễ, mang theo bánh mì lát kẹp thịt kho để gặm suốt mấy năm đại học. Xin được Pell Grants học trường đại học cộng đồng Mt. San Antonio, nhờ điểm cao nên chị em nó đều làm “tutors” theo chương trình “work-study.” Anh và em trai nó giúp các học sinh khác cho các môn toán-lý-hóa, còn nó và chị thì cho các môn giải phẫu, sinh lý học, vi sinh học. Giữa các mùa học, công ty giới thiệu việc làm gửi nó đi làm đủ việc tạm thời: ráp đèn pin MAC-lite, đóng gói nước hoa, làm trong nhà máy dây chuyền thổi bình nước ngọt soda,...

Mấy mùa đầu chuyển lên Cal Poly Pomona, nó ghi danh hơi nhiều lớp, và hệ miễn dịch của nó quá tệ nên vô phòng thí nghiệm là ốm nặng. Nó không thể theo đuổi ngành Y khoa nào, vì... vi trùng mạnh hơn! Nó đổi cái ào sang học điện toán, nhặt “bugs” và viết “codes” trị “vi trùng” cho máy. Nó quay về trường cũ xin được việc khác trong “Professor Development Department,” làm thêm ngoài giờ học, trong nhiều năm. 

Ông “sếp” trẻ hay thấy nó chui dưới gầm bàn, sửa ráp và sắp xếp dây nhợ máy móc cho ngăn nắp. Có lần nó sửa giùm cái máy tính xách tay của một giáo sư, cần nộp hồ sơ gấp mà toàn bộ đơn từ bị “giam” chết trong máy. Vài tuần sau bà báo tin được chức vị mới, tặng nó cái thiệp viết thư giới thiệu khen nó hết lời. Có lẽ lá thư này đã góp phần giúp nó, hai tháng trước khi tốt nghiệp, được nhận vào làm chuyên viên điện toán cho một trong năm công ty “nhà thầu” lớn nhất của Bộ Quốc Phòng, mà không tốn một con tem gửi hồ sơ xin việc?

***

Ba Mạ nó trồng bụi chuối nước đỏ rực nơi vạt đất trước sân, thêm mấy dây rau lang, bụi quế, sả ớt, và cây chuối sau hè, và luôn nhắc cho chúng nó không quên nguồn cội. Nó nhìn mà khắc khoải nhớ quê, trút nỗi lòng... làm thơ trên giấy trắng. Làm sao nó quên được tiếng Việt thân thương! Những cuối tuần chở Mạ đi chợ, nó luôn rinh về hai tờ Người Việt Thứ Bảy và Chủ Nhật; Hôm nào không có báo, nó buồn thiu như mèo mất tai. Những ngày Ðông lạnh lẽo cận Tết Nguyên-đán mỗi năm, chị em nó rong ruổi đường xa xuống “Tiểu Sài Gòn,” ghé tìm mua các tờ báo Xuân đem về đọc và để dành “làm của.” Có năm, bận bịu mùa thi nên nó lần lữa... Ðến giáp Tết, mấy tờ báo Xuân ăn khách, nhất là của Người Việt và Việt Báo, có người mua hết. Chị em nó lái về, buồn hiu hắt như bị đánh cắp cả mùa Xuân.

Ba Mạ nó chỉ đủ sức đưa chị em nó đến bến bờ tự do, nhưng bao người khác và đất nước Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ bao dung đã giang rộng cánh tay giúp chúng nó có cơ hội vươn lên, tạo dựng đời sống mới cho mình, và chắp cho chúng nó đôi cánh mạnh mẽ để bay cao, bay thật xa trong vùng trời an bình tự do... cho thế hệ nó và đời đời con cháu Việt.

Như hôm nay, đôi cánh sắt máy bay đang chao nghiêng xuống vùng trời Washington D.C., đưa cô bé “ốc tiêu” từng bán thuốc lá lẻ, vé số dạo quanh các nẻo đường nơi quê nghèo ngày cũ, đến một hành trình mới trong đời, rất khác...
(Texas, Mùa Ðông 2013)

0 nhận xét:

Đăng nhận xét